(Thanhtravietnam.vn) - Giới sử học và các cơ quan chuyên môn đã thống nhất khẳng định hai danh nhân lịch sử Nguyễn Hiệu - Nguyễn Hoàn có những cống hiến to lớn đối với lịch sử dân tộc nói chung, với thành phố Hà Nội nói riêng. Nhằm tôn vinh và phát huy giá trị văn hóa mà hai danh nhân để lại, Viện Sử học cũng đã có văn bản đề nghị UBND TP Hà Nội xét đặt tên Nguyễn Hiệu - Nguyễn Hoàn cho 2 đường phố của Thủ đô và trùng tu, tôn tạo công trình tưởng niệm hai danh nhân tại làng Đa Sĩ, Kiến Hưng, Hà Đông, Hà Nội. Tuy nhiên, để làm được những việc này, góp phần thực hiện tốt Luật Di sản văn hóa thì rất cần sự vào cuộc quyết liệt hơn của các cấp chính quyền TP Hà Nội.
Làng Đa Sĩ và hai cha con Quận công Nguyễn Hiệu – Nguyễn Hoàn
Làng Đa Sĩ được coi là vùng đất liền mạch của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Đây là làng văn vật, là đất khoa bảng, quê hương của nhiều bậc hiền tài tuấn kiệt. Trước làng có tên là Đan Sĩ (Bến đợi thuốc, bến tế độ), sau vì có nhiều người đỗ đạt, làng có tới 11 Tiến sĩ trong lịch sử khoa cử Nho học phong kiến, nên được đổi tên thành Đa Sĩ. Đây cũng có thể là lý do giải thích tại sao Tham tụng, Thượng thư, Quốc sư, Viện Quận công Nguyễn Hoàn chọn vùng đất địa linh sinh nhân kiệt này làm nơi trí sĩ vào năm 65 tuổi. Dù quê gốc của ông là ở thôn Lan Khê, huyện Nông Cống, nay thuộc huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Tuy nhiên, chúng ta trước tiên phải nói đến người cha của ông, người có rất nhiều ảnh hưởng với Nguyễn Hoàn, cụ là Tham tụng, Thượng thư, Thiếu bảo, Nông Quận công Nguyễn Hiệu.
Nguyễn Hiệu (1674 – 1735) là người sớm có chí học hành, mới 13 tuổi đã tham dự kỳ thi Ứng khoa ở Nông Cống, năm 16 tuổi đỗ hạng thứ tư kỳ thi Hương khoa Canh Ngọ - 1690, sau đó tiếp tục đỗ Hội nguyên, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn (1700). Sau khi đỗ Tiến sĩ, Nguyễn Hiệu được cử làm Giám sát ngự sử đạo Kinh Bắc, hàm Chánh thất phẩm. Sau đó, ông lần lượt trải qua nhiều chức vụ: Giám sát ngự sử đạo Sơn Nam, Đô cấp sự trung bộ Hình (Hình khoa), Hồng lô Tự khanh, Thiêm sai Bồi tụng, Tả tư giảng và Hình bộ Tả thị lang, Thương thư bộ Binh gia Thiếu bảo, Thượng thư bộ Hình thự Thiếu bảo, Tham tụng, Thượng thư bộ Lại, hàm Thiếu bảo, tước Nông Quận công.
Nguyễn Hiệu (1674 – 1735) là người sớm có chí học hành, mới 13 tuổi đã tham dự kỳ thi Ứng khoa ở Nông Cống, năm 16 tuổi đỗ hạng thứ tư kỳ thi Hương khoa Canh Ngọ - 1690, sau đó tiếp tục đỗ Hội nguyên, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn (1700). Sau khi đỗ Tiến sĩ, Nguyễn Hiệu được cử làm Giám sát ngự sử đạo Kinh Bắc, hàm Chánh thất phẩm. Sau đó, ông lần lượt trải qua nhiều chức vụ: Giám sát ngự sử đạo Sơn Nam, Đô cấp sự trung bộ Hình (Hình khoa), Hồng lô Tự khanh, Thiêm sai Bồi tụng, Tả tư giảng và Hình bộ Tả thị lang, Thương thư bộ Binh gia Thiếu bảo, Thượng thư bộ Hình thự Thiếu bảo, Tham tụng, Thượng thư bộ Lại, hàm Thiếu bảo, tước Nông Quận công.
Bước vào quan trường năm 1702, đến 1735, ông từng làm Thượng thư (tương đương Bộ trưởng ngày nay) nhiều bộ (Lại, Binh, Hình), lúc thì phụ trách công tác tổ chức quan lại khi thì phụ trách việc quân, lúc thì phụ trách hình phạt xét xử, lúc làm thầy giáo dạy Thế tử Trịnh Giang,…ở vị trí công việc nào ông cũng để lại ấn tượng tốt đẹp.
Đặc biệt, năm 1715, khi giữ chức Thiêm sai Bồi tụng, Nguyễn Hiệu đã dâng kế sách “trị bình” – kế trị nước, an dân – và may mắn được chúa Trịnh xem và khen là có thể cất nhắc ông dùng vào những việc lớn của quốc gia, sau đó tháng Chạp cùng năm ông được thăng lên Bồi tụng (tương đương Phó Thủ tướng bây giờ).
Cuộc đời và sự nghiệp chính trị của Nguyễn Hiệu cũng để lại nhiều dấu ấn trong công tác tổ chức, tuyển chọn quan lại của triều đình Lê – Trịnh. Là người ngay thẳng, công bằng, ông không chỉ góp phần lựa chọn cho triều đình nhiều vị quan có đức, có tài mà còn giúp minh oan cho một số Tiến sĩ. Như trường hợp của Tiến sĩ Trần Đình Thu, bị nghi là gian lận trong thi cử nên mặc dù được triều đình cử giữ chức Cấp sự trung bộ Binh (Binh khoa), chúa vẫn quyết định cách hết quan chức, khoa giáp nhưng Nguyễn Hiệu kịp thời can ngăn vì sau khi điều tra không có chứng cớ nên cuối cùng Trần Đình Thu được miễn tội. Gia phả họ Nguyễn Hà chép về ông như sau: “…cụ coi việc tuyển dụng quan lại trên 10 năm nhưng không hề xin, nhận, gửi của ai, chỉ tùy theo đức hạnh, tài năng, công lao và thâm niên để cắt đặt vị trí quan chức cho mọi người, lại miễn lệ nạp tiền, nạp gạo tạ đường, sĩ phu ai ai cũng phải phục”.
Nguyễn Hiệu là một tấm gương sáng về một vị quan đầu triều thanh liêm, hết lòng tận tụy phục vụ đất nước, triều đình. Ông có uy tín rất lớn đối với triều đình Lê - Trịnh, năm 1726, khi Thanh Hóa bị nạn đói hoành hành, Bồi tụng Nguyễn Hiệu đã được triều đình tin cẩn giao cho 14 vạn quan tiền từ kho nhà nước để đi phát chẩn cho dân. Năm 1727, ông được tín nhiệm giao chức Đô Ngự sử, là Trưởng quan của Ngự sử đài, một chức quan rất trọng, chuyên trông coi việc phong hóa pháp độ.
Làm đến chức Tham tụng, Tể tướng đầu triều (tương đương Thủ tướng Chính phủ hiện nay) song Nguyễn Hiệu là người có tấm lòng rất khoan dung, nhân hậu. Cũng chỉ vì đức tính cao quý đó mà năm 1734 khi Nguyễn Hiệu có ý trì hoãn việc giết Đỗ Bá Phẩm, chúa Trịnh Giang đã giáng chức ông, không cho giữ chức Tham tụng nữa và từ Thượng thư bộ Binh chuyển làm Thượng thư bộ Hình, thự Thiếu bảo. Tuy nhiên, với tài năng, đức độ, chỉ 3 tháng sau, Nguyễn Hiệu lại được phục chức Tham tụng, Thượng thư bộ Lại, hàm Thiếu bảo.
Nguyễn Hiệu đã cống hiến trọn đời cho dân, cho nước. Đúng như Sách Đại Việt sử ký tục biên (1676 – 1789) đã chép về ông như sau: “(Nguyễn) Hiệu là người trọng hậu giữ mình ngay thẳng, thích bồi dưỡng kẻ sĩ, dắt dẫn kẻ hậu tiến. Đối với quan nhỏ cũng tiếp đãi theo lễ. Lúc tuổi già cầm đại chính, mong đổi phép tắc hà khắc, sửa phú dịch cho công bằng, nhẹ việc trưng thu thôi thúc, đều tự mình trù bàn những việc ấy, trăm họ được nhờ”. Sau khi mất, Nguyễn Hiệu được triều đình Lê – Trịnh tặng chức Thái bảo, cho lập đền thờ và truy tặng làm Trung chính Khoan hậu Đại vương, Trung đẳng Phúc thần.
Đặc biệt, năm 1715, khi giữ chức Thiêm sai Bồi tụng, Nguyễn Hiệu đã dâng kế sách “trị bình” – kế trị nước, an dân – và may mắn được chúa Trịnh xem và khen là có thể cất nhắc ông dùng vào những việc lớn của quốc gia, sau đó tháng Chạp cùng năm ông được thăng lên Bồi tụng (tương đương Phó Thủ tướng bây giờ).
Cuộc đời và sự nghiệp chính trị của Nguyễn Hiệu cũng để lại nhiều dấu ấn trong công tác tổ chức, tuyển chọn quan lại của triều đình Lê – Trịnh. Là người ngay thẳng, công bằng, ông không chỉ góp phần lựa chọn cho triều đình nhiều vị quan có đức, có tài mà còn giúp minh oan cho một số Tiến sĩ. Như trường hợp của Tiến sĩ Trần Đình Thu, bị nghi là gian lận trong thi cử nên mặc dù được triều đình cử giữ chức Cấp sự trung bộ Binh (Binh khoa), chúa vẫn quyết định cách hết quan chức, khoa giáp nhưng Nguyễn Hiệu kịp thời can ngăn vì sau khi điều tra không có chứng cớ nên cuối cùng Trần Đình Thu được miễn tội. Gia phả họ Nguyễn Hà chép về ông như sau: “…cụ coi việc tuyển dụng quan lại trên 10 năm nhưng không hề xin, nhận, gửi của ai, chỉ tùy theo đức hạnh, tài năng, công lao và thâm niên để cắt đặt vị trí quan chức cho mọi người, lại miễn lệ nạp tiền, nạp gạo tạ đường, sĩ phu ai ai cũng phải phục”.
Nguyễn Hiệu là một tấm gương sáng về một vị quan đầu triều thanh liêm, hết lòng tận tụy phục vụ đất nước, triều đình. Ông có uy tín rất lớn đối với triều đình Lê - Trịnh, năm 1726, khi Thanh Hóa bị nạn đói hoành hành, Bồi tụng Nguyễn Hiệu đã được triều đình tin cẩn giao cho 14 vạn quan tiền từ kho nhà nước để đi phát chẩn cho dân. Năm 1727, ông được tín nhiệm giao chức Đô Ngự sử, là Trưởng quan của Ngự sử đài, một chức quan rất trọng, chuyên trông coi việc phong hóa pháp độ.
Làm đến chức Tham tụng, Tể tướng đầu triều (tương đương Thủ tướng Chính phủ hiện nay) song Nguyễn Hiệu là người có tấm lòng rất khoan dung, nhân hậu. Cũng chỉ vì đức tính cao quý đó mà năm 1734 khi Nguyễn Hiệu có ý trì hoãn việc giết Đỗ Bá Phẩm, chúa Trịnh Giang đã giáng chức ông, không cho giữ chức Tham tụng nữa và từ Thượng thư bộ Binh chuyển làm Thượng thư bộ Hình, thự Thiếu bảo. Tuy nhiên, với tài năng, đức độ, chỉ 3 tháng sau, Nguyễn Hiệu lại được phục chức Tham tụng, Thượng thư bộ Lại, hàm Thiếu bảo.
Nguyễn Hiệu đã cống hiến trọn đời cho dân, cho nước. Đúng như Sách Đại Việt sử ký tục biên (1676 – 1789) đã chép về ông như sau: “(Nguyễn) Hiệu là người trọng hậu giữ mình ngay thẳng, thích bồi dưỡng kẻ sĩ, dắt dẫn kẻ hậu tiến. Đối với quan nhỏ cũng tiếp đãi theo lễ. Lúc tuổi già cầm đại chính, mong đổi phép tắc hà khắc, sửa phú dịch cho công bằng, nhẹ việc trưng thu thôi thúc, đều tự mình trù bàn những việc ấy, trăm họ được nhờ”. Sau khi mất, Nguyễn Hiệu được triều đình Lê – Trịnh tặng chức Thái bảo, cho lập đền thờ và truy tặng làm Trung chính Khoan hậu Đại vương, Trung đẳng Phúc thần.