Trang

Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2011

GIA PHẢ (HỌ NGUYỄN HÀ)


                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                 
GIA PHẢ (HỌ NGUYỄN HÀ)
VHv.1754/1
Dịch nghĩa:
[1a] Quyển thủ gia phả
Bài Tựa
Gia phả của họ ta từ Viện quận tướng công mới bắt đầu biên tập thành sách nhưng việc ghi chép còn rất là sơ lược. Cho đến tiên khảo Thuần Tĩnh phủ quân cũng vẫn phải khảo cứu và sưu tầm nhưng cũng hết sức lược biên. Sự trạng của Viện quận tướng công  mãi tới gần đây thì Trực Giản phủ quân mới dựa vào phả cũ biên tập và ghi chép lại đầy đủ thì hành trạng của Viện quận tướng công mới được rõ ràng. Trong lúc ghi chép lại có một vài chỗ không phù hợp với cách chép sử bởi lẽ nhà nho hay chữ cũng có ghi chép gia phả của gia tộc, vì gia phả là lịch sử của dòng họ. Lịch sử của đất nước có các ghi chép theo quốc sử, gia tộc cũng có cách biên soạn theo lịch sử gia tộc nhất định phải có sự phân biệt thân, sơ, để sao cho làm rõ thế thứ các đời, dựa vào điều nghĩa nhưng cũng không vượt quá xa so với thể tài vậy. Tôi (người viết bài tựa) thường đọc Tô thị tộc phả trong đó có dẫn rằng: “Từ cha của ta cho đến cụ cao tổ của ta có làm quan hay không, lấy ai, hưởng thọ bao nhiêu tuổi, mất ngày nào đều được ghi lại còn nếu như người ta mà không ghi lại thì không thể biết được rằng ta t đâu mà ra? T cha của ta đến các cụ cao tổ của ta đều ghi rõ tên húy của các cụ là gì còn người ta thì chỉ viết tên mà thôi cho nên ta cũng tôn lên được nguồn gốc ra đời của mình vậy!”, lại viết tiếp: "Tình nghĩa thì xem xét ở mức độ thân thiết, sự thân thiết thì xét ở trang phục , nếu trang phục càng đầy đủ thì tình nghĩa càng đậm sâu [1b], tình nghĩa đậm sâu thì là người thân thích chứ không thể như người xa lạ không quen biết được. Anh em thì hai người là một nhưng thật buồn là thân phận một người mà lại bị coi như người xa lạ vì thế nên ta phải viết gia phả!”. Cách nói ấy thực ra xuất phát từ Kinh lễ uyên thâm, ngày nay dựa vào đó mà mô phỏng dựa theo thư pháp của Lão Tô mà đem các bản phả cũ ra để biên soạn lại, từ cụ Thủy tổ Tính Chân phủ quân về sau cho tới cụ Cao tổ Chân Lượng phủ quân của ta ghi chép gọi là gia phả tiền biên các đời. Từ cụ Tằng tổ Nông Quận tướng công đến bác của ta là Ôn Cẩn phủ quân gọi là gia phả chính biên. Còn Ông của ta là Thuần Tĩnh phủ quân thì ghi chép riêng là biệt chi, cho đến các chi nhánh khác thì đều gọi là các chi phái riêng biệt. Bị khảo gia tiên các đời, theo thế thứ mà biên soạn theo cách trước hết là chức tước rồi đến thụy hiệu rồi sau đó là hành trạng, sự tích, chủ yếu làm sao để giữ được tính chân thực mà khảo chứng, luận bàn. Rồi phụ kèm các chi phái riêng biệt cũng theo cách là tên họ rồi đến sơ lược về hành trạng, thứ đến mới các chi tiết liên quan để làm sao làm nổi bật rõ ràng xuất thân của ta để rồi hợp với nguồn gốc của những người mà ta chưa quen biết thành một họ thống nhất, cũng là để làm rõ chi phái các đời trong một giềng mối thống nhất, kỉ cương. Từ nay về sau sách vở không bị đứt đoạn, cháu con nối dõi đời đời thay nhau tu bổ, cho đến nghìn năm sau miêu duệ cũng có thể khảo cứu và biết rõ về cội nguồn, [2a] biết được việc của nghìn năm trước để không có gì lay chuyển được dòng họ danh gia dù có lúc thăng trầm theo thời thế. Kẻ hậu nhân là ta vì nghĩ tới những điều đó nên cầm bút ghi lại những dòng này.
Tiết Lập thu năm Tân Sửu niên hiệu Thiệu Trị thứ 1 (1841).
Người cháu là Bảo kính cẩn vâng soạn tại tỉnh Đông.


[2b] LỜI TỰA GỐC
(Đây là lời Tựa do cụ Viện quận tướng công khi biên soạn gia phả đã viết).
Trộm nghe: Các cụ thủy tổ của ta có người là nông dân, có người là bậc hào phú, trong họ có người phát đạt ở trường làng, cũng có người dấn thân nơi triều chính, đắng cay mặn ngọt đường đời đã từng nếm trải. Bậc Thánh thượng cổ vũ nho khoa thi cử để khôi phục sự nghiệp cho kẻ hiền tài. Duy chỉ có cụ Thần khảo họ ta xuất thân nơi thôn dã, niềm vui chỉ với bờ bãi mà được đăng khoa, khởi dựng cơ đồ cho các bậc nho sĩ của họ ta được vinh danh từ đó. Thanh danh, văn vật của ấp ta thực tất cả nhờ vào quyền uy của cụ Thần khảo nhà ta vậy! Cụ đúng là bậc tổ của các vị tiên hiền trong bản ấp vậy!. Cụ Thần khảo đã trải muôn vàn khó khăn trong sự nghiệp, thừa mệnh trời ưu ái nên được vào cung phụ giúp vua nói và làm những điều ngay thẳng., một người lương thiện thì vạn quốc nghe theo. Ở nơi gác vàng giữ chức Tham bồi mà mà làm điều nhân điều đức, sống vì nhân dân, vừa hiến kế sách cho vua đúng đắn mà trăm dân được thấm nhuần. Cụ còn là bậc sống khiêm nhường, cung kính trong hành xử, lấy sự ôn hậu để đối đãi người ngoài, làm quan ngay thẳng và cẩn thận giống như người vác cây gậy chống vậy!. Kẻ sĩ nhớ đến cụ với ân thâm sâu sắc vì cụ đã vun trồng tính kế lâu dài giúp cho, thế nên mới phát đạt. Công lao vĩ đại của cụ làm rạng rỡ tổ tông, lan tỏa ánh sáng tới cháu con muôn đời. Cho nên được tắm gội bởi ơn mưa móc là ánh sáng của bậc phúc thần là cụ nhà ta. Miếu mạo nguy nga, điển thờ mãi mãi, xuân thu hưởng báo đáp dốc lòng vươn tới những điều tốt đẹp, cho nên nền móng hưởng phúc lành, cánh phượng cứu giúp gia thanh rạng vẻ! Đời đời nối dài chẳng phải là việc ngẫu nhiên mà có được!. Dấu tích chính là ở chỗ tổ tiên được cư ở những nơi danh giá mà tinh tế thi hành những điều có ích khiến tiếng tăm [3a] được vang xa chẳng cần phải biểu dương hay cổ súy thì cũng đủ để răn dạy cháu con lấy truyền thống gia đình làm cho ngày càng tốt đẹp hơn nữa, vì thế mà càng phải cẩn thận trong việc ghi chép gia phả để lưu truyền cho cháu con, khiến cho hậu thế tử tôn được mục sở thị để biết được những việc làm ích lợi, tốt đẹp của tổ tông, từ đó suy nghĩ, ngưỡng mộ và làm theo. Để mà ngẫm nghĩ về thịnh đức của tổ tiên, công lao vĩ đại phải được mãi duy trì và tuân thủ, lấy đó mà làm mô phạm để chấp hành, lấy đó là cơm ăn áo mặc để truyền đến cho cháu con. Có như vậy thì phúc trạch của sách vở thi thư mới có đường để mà lưu truyền mãi mãi. Nay viết ra đây làm bài Tựa!
Ngày tốt tháng giữa đông năm Cảnh Hưng thứ 33 (1772)



[3b] LỜI TỰA GỐC
(Khi người chú của ta là Trực Giản phủ quân biên tập gia phả thì có người bạn của chú viết hộ bài Tựa này).
Cụ Quốc sư triều Lê là con trai cụ Quốc sư triều trước, một nhà có 2 ngọn núi sừng sững như vậy đó! Hành trạng của cụ có thể xem trong cuốn Nguyễn Đại gia thế đức chi phả do con trai của cụ là Tín mới biên tập. Sách đã hoàn thành liền trưng lên cho ta xem, ta trộm nghĩ vạn vật trong thiên hạ vốn có gốc bởi trời, con người có nguồn gốc từ tổ tiên, cho nên có thể nói họ Đàm lấy từ sách Xuân thu để mà biên soạn sách vở bắt đầu từ Thái sử công thế gia liệt truyện, gia tộc có gia phả cũng bắt đầu theo cách làm này từ đó. Ta là người thường được đọc nhiều bản gia phả lớn của đất nước, các vị Hội nguyên, Tư giảng đời nào cũng có, Tham tụng, Tư đồ đời nào cũng có, nhưng nối đời đậu Hội nguyên, giữ chức Tư giảng, nối đời giữ chức Tham tụng, lại Tư đồ thì xem ra khắp đất nước chẳng có ai được như cha con của cụ vậy. Người ta cho rằng có thể qui về được phúc ấm của thế đất, có người cho rằng là nhờ âm công, vậy mà đời cũng có cha con cụ chẳng phải là điều kì diệu mà chẳng thể định luận nổi hay sao? Đại để rằng trong vòng trời đất này có lí, có số, khi lí số có giá trị ngang nhau thì những người xuất thế nổi danh vậy. Từ đời Lê trung hưng về sau đó khoảng 200 năm là thời điểm lí số cực kì thịnh trị, phúc tinh chiếu dọi, lại xuất hiện thời kì chính chân nguyên, nghìn thu hội ngộ một thời, mà quê cụ lại là đất trung hưng của nhà Lê, vượng khí hun đúc chung linh, thật khác biệt với tầm thường! Cho nên, trên thì có các bậc vua nối đời kinh bang tế thế, phía dưới có các vị tôi thần cha con nối đời [4a] , đó chính là bí mật của tạo hóa, nhưng cũng chẳng phải bỗng dưng xuất hiện ngẫu nhiên vậy!
 Các bậc thế thần, thế khanh, thế tướng thời cổ xuất hiện cũng là đương nhiên. Trong các bức trướng văn mừng cụ về trí sĩ của triều đình có viết: Trời giúp dập tùy từng đất nước, tất sinh  bậc tướng thần đạo đức lớn lao, thứ đến là giúp dập cho vận nước hưng bình, xét về mặt lí số mà nói thì đó cũng là sự ứng nghiệm vậy! Nhưng, đường công danh hơn người thì cũng có điểm sai sót hơn người, chuyện cũ tang thương, ngắt quãng, việc biên soạn bị tàn khuyết, 10 phần chỉ còn 1, nghìn bài văn bài thơ thì tập hợp lại cũng chẳng thể đủ được. Vì thế, con cháu đời sau muốn tìm hiểu về văn chương của cụ thì có tuyển tập các bài văn trong các kì thi Hội, muốn tìm tên đỗ đại khoa của cụ đã có bia đá khắc ghi, muốn biết về công tích của cụ thì tìm đọc Lê triều sử kí, muốn tìm hiểu về sự nghiệp quan lộ của cụ thì tìm trong thơ phú v.v..., muốn tìm hiểu về đức độ của cụ đã có bia miệng lưu truyền ở làng xóm quê hương, cũng chẳng nghe thấy những điều dị nghị bao giờ? Cụ quả là thần diệu biết bao!, cho đến việc tu đạo đường đời có thể nói là cụ khi biết ẩn mình giữa cuộc đời, khi ở vào chỗ lưu hầu khanh tướng thực hơn người, cho nên có người viết về cụ rằng [4b]: phú quí công danh chỉ như đám mây nổi mà thôi, trước nay quyền hành đã nếm trải đủ rồi. Để thấy rằng ánh sáng trí tuệ của cụ vô cùng minh mẫn, có thể nhìn thấu chốn quan trường đấu đá mệt mỏi, thực là sống ở trần gian mà chẳng nhiễm bụi trần, nhập thế rồi xuất thế, chẳng lụy vì những thói tục thường tình, chẳng vì vật đổi mà sao phải dời, ngang nhiên vẫy vùng giữa trời bể bao la. Khí thiêng của núi Nưa, núi Hoàng hun đúc, cốt cách của Từ Thức, Phạm Viên tạo nên, địa linh nhân kiệt, giáng xuất có thời, cho nên sự nghiệp mới vẻ vang, công danh hiển thế đến vậy! Sự huyền diệu đó không thể một sớm một chiều đem cái nhãn quan của người trần và cái tâm bồng bột ra để mà bàn luận được cho nên phải biên thành gia phả. Những điều đặc sắc về cụ chưa thể kể đủ hết nhưng cụ nhà ta là người có ý muốn ở việc kế thừa cho nên thu thập và biên thành gia phả, cho nên không thể xem nhẹ việc này được và người đọc cũng phải cũng thực sự tỉ mỉ vậy.
Năm Minh Mệnh thứ 6 (1825). Kẻ hậu học là người cùng quê tên Vô Danh thị bái đề.

[5a] NIÊN BIỂU GIA PHẢ
Năm Giáp Ngọ niên hiệu Hồng Đức thứ 5 (1474) đời vua Lê Thánh Tông Thuần Hoàng đế. Vào năm này cụ Tính Chân phủ quân cùng anh là Thọ bắt đầu di cư đến thôn Biểu Nộn xã Vĩnh Khê huyện Nông Cống.
Năm Ất Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 6 (1475)
Năm Bính Thân niên hiệu Hồng Đức thứ 7 (1476)
Năm Đinh Dậu niên hiệu Hồng Đức thứ 8 (1477)
Năm Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức thứ 9 (1478)
Năm Kỉ Hợi niên hiệu Hồng Đức thứ 10 (1479)
Năm Canh Tí niên hiệu Hồng Đức thứ 11 (1480)
Năm Tân Sửu niên hiệu Hồng Đức thứ 12 (1481)
Năm Nhâm Dần niên hiệu Hồng Đức thứ 13 (1482)
Năm Quí Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 14 (1483)
Năm Giáp Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (1484)
Năm Ất Tị niên hiệu Hồng Đức thứ 16 (1485)
Năm Bính Ngọ niên hiệu Hồng Đức thứ 17 (1486)
Năm Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487)
Năm Mậu Thân niên hiệu Hồng Đức thứ 19 (1488)
[5b] Năm Kỉ Dậu niên hiệu Hồng Đức thứ 20 (1489)
Năm Canh Tuất niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490)
Năm Tân Hợi niên hiệu Hồng Đức thứ 22 (1491)
Năm Nhâm Tí niên hiệu Hồng Đức thứ 23 (1492)
Năm Quí Sửu niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (1493)
Năm Giáp Dần niên hiệu Hồng Đức thứ 25 (1494)
Năm Ất Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 26 (1495)
Năm Bính Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496)
Năm Đinh Tị niên hiệu Hồng Đức thứ 28 (1497)
Năm Mậu Ngọ niên hiệu Cảnh Thống thứ 1 (1498) đời vua Lê Hiến Tông Duệ Hoàng đế.
Năm Kỉ Mùi niên hiệu Cảnh Thống thứ 2 (1499)
Năm Canh Thân niên hiệu Cảnh Thống thứ 3 (1500)
Năm Tân Dậu niên hiệu Cảnh Thống thứ 4 (1501)
Năm Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống thứ 5 (1502)
Năm Qúi Hợi niên hiệu Cảnh Thống thứ 6 (1503)
Năm Giáp Tí niên hiệu Thái Trinh thứ 1 (1504) đời vua Lê Túc Tông Khâm Hoàng đế.
Năm Ất Sửu hiệu Đoan Khánh thứ 1 (1505) đời vua Lê Uy Mục Đế
Năm Bính Dần niên hiệu Đoan Khánh thứ 2 (1506)
Năm Đinh Mão niên hiệu Đoan Khánh thứ 3 (1507)
Năm Bính Thìn niên hiệu Đoan Khánh thứ 4 (1508)
[6a] Năm Kỉ Tị niên hiệu Hồng Thuận thứ 1 (1509) đời vua Lê Tương Dực Đế
Năm Canh Ngọ niên hiệu Hồng Thuận thứ 2 (1510)
Năm Tân Mùi niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 (1511)
Năm Nhâm Thân niên hiệu Hồng Thuận thứ 4 (1512)
Năm Quí Dậu niên hiệu HồngThuận thứ 5 (1513)
Năm Giáp Tuất niên hiệu Hồng Thuận thứ 6 (1514)
Năm Ất Hợi niên hiệu Hồng Thuận thứ 7 (1515)
Năm Bính Tí niên hiệu Quang Thiệu thứ 1 đời vua Lê Chiêu Tông Thần Hoàng đế (1516)
Năm Đinh Sửu niên hiệu Quang Thiệu thứ 2 (1517)
Năm Mậu Dần niên hiệu Quang Thiệu thứ 3 (1518)
Năm Kỉ Mão niên hiệu Quang Thiệu thứ 4 (1519)
Năm Canh Thìn niên hiệu Quang Thiệu thứ 5 (1520)
Năm Tân Tị niên hiệu Quang Thiệu thứ 6 (1521)
Năm Nhâm Ngọ niên hiệu Thống Nguyên 1 (1522) đời vua Lê Cung Đế
Năm Quí Mùi niên hiệu Thống Nguyên thứ 2(1523)
Năm Giáp Thân niên hiệu Thống Nguyên thứ 3 (1524)
Năm Ất Dậu niên hiệu Thống Nguyên thứ 4 (1525)
Năm Bính Tuất niên hiệu Thống Nguyên thứ 5 (1526)
Năm Đinh Hợi - Mạc Đăng Dung tiếm xưng, niên hiệu Minh Đức thứ 1 (1527)
Năm Mậu Tí, niên hiệu Minh Đức thứ 2 đời Mạc (1528)
[6b] Năm Kỉ Sửu, niên hiệu Minh Đức thứ 3 đời Mạc (1529)
Năm Canh Dần- Mạc Đăng Doanh tiếm xưng, lấy niên hiệu Đại Chính 1 (1530)
Năm Tân Mão- niên hiệu Đại Chính thứ 2 đời Mạc (1531)
Năm Nhâm Thìn - niên hiệu Đại Chính thứ 3 đời Mạc (1532)
Năm Quí Tí, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 1 đời vua Lê Trang Tông, Mạc Đại Chính năm thứ 4 (1533)
Năm Giáp Ngọ niên hiệu Nguyên Hòa thứ 2, Mạc Đại Chính năm thứ 5 (1534)
Năm Ất Mùi niên hiệu Nguyên Hòa thứ 3, Mạc Đại Chính năm thứ 6 (1535)
Năm Bính Thân niên hiệu Nguyên Hòa thứ 4, Mạc Đại Chính năm thứ 7 (1536)
Năm Đinh Dậu niên hiệu Nguyên Hòa thứ 5, Mạc Đại Chính năm thứ 8 (1537)
Năm Canh Tí niên hiệu Nguyên Hòa thứ 6, Mạc Đại Chính năm thứ 9 (1538)
Năm Kỉ Hợi niên hiệu Nguyên Hòa thứ 7, Mạc Đại Chính năm thứ 10 (1539)
Năm Canh Tí niên hiệu Nguyên Hòa thứ 8, Mạc Đại Chính năm thứ 11 (1540)
Năm Tân Sửu niên hiệu Nguyên Hòa thứ 9, Mạc Phúc Hải tiếm xưng lấy niên hiệu là Quảng Hòa thứ 1 (1541)
Năm Nhâm Dần niên hiệu Nguyên Hòa thứ 10, Mạc Quảng Hòa thứ 2 (1542)
Năm Quí Mão niên hiệu Nguyên Hòa thứ 11, Mạc Quảng Hòa năm thứ 3 (1543)
Năm Giáp Thìn niên hiệu Nguyên Hòa thứ 12, Mạc Quảng Hòa năm thứ 4 (1544)
Năm Ất Tị niên hiệu Nguyên Hòa thứ 13, Mạc Quảng Hòa thứ 5 (1545)
Năm Bính Ngọ niên hiệu Nguyên Hòa năm thứ 14, Mạc Quảng Hoà năm thứ 6 (1546)
Năm Đinh Mùi niên hiệu Nguyên Hòa thứ 15, Mạc Phúc Nguyên tiếm xứng lấy niên hiệu là Vĩnh Định thứ 1 (1547)
[7a] Năm Mậu Thân niên hiệu Nguyên Hòa thứ 16, Mạc Phúc Nguyên lấy tên là Cảnh Lịch thứ 1 (1548).
Năm Kỉ Dậu niên hiệu Thuận Bình 1, đời vua Lê Trung Tung Võ hoàng đế, Mạc Cảnh Lịch năm thứ 2 (1549)
Năm Canh Tuất niên hiệu Thuận Bình 2, Mạc Cảnh Lịch năm thứ 3 (1550)
Năm Tân Hợi niên hiệu Thuận Bình thứ 3, Mạc Cảnh Lịch năm thứ 4 (1551)
Năm Nhâm Tí niên hiệu Thuận Bình thứ 4, Mạc Cảnh Lịch năm thứ 5 (1552)
Năm Quý Sửu niên hiệu Thuận Bình thứ 5, Mạc Cảnh Lịch năm thứ 6 (1553)
Năm Giáp Dần niên hiệu Thuận Bình thứ 6, Mạc Cảnh Lịch năm thứ 7 (1554)
Năm Ất Mão niên hiệu Thuận Bình thứ 7, Mạc Phúc Nguyên tiếm xưng lấy niên hiệu là Quang Bảo thứ 1 (1555)
Năm Bính Thình niên hiệu Thuận Bình thứ 8, Mạc Quang Bảo năm thứ 2 (1556), Mạc Quang Bảo thứ 2.
Năm Đinh Tị niên hiệu Thiên Hựu thứ 1 đời Lê Anh Tông, Mạc Quang Bảo năm thứ 3 (1557)
Năm Mậu Ngọ niên hiệu Chính Trị thứ 1 đời Lê Anh Tông, Mạc Quang Bảo năm thứ 4 (1558)
Năm Kỉ Mùi niên hiệu Chính Trị 2 (1559)
Năm Canh Thân niên hiệu Chính Trị 3, Mạc Quang Bảo năm thứ 6 (1560)
Năm Tân Dậu niên hiệu Chính Trị thứ 4, Mạc Quang Bảo năm thứ 7 (1561)
Năm Nhâm Tuất niên hiệu Chính Trị thứ 5, Mạc Quang Bảo năm thứ 8 (1562)
Năm Quí Hợi niên hiệu Chính Trị thứ 6, Mạc Quang Bảo thứ 9 (1563)
Năm Giáp Tí niên hiệu Chính Trị thứ 7, Mạc Quang Bảo thứ 10 (1564)
Năm Ất Sửu niên hiệu Chính Trị thứ 8, Mạc Mậu Hậu tiếm xưng, lấy niên hiệu là Thuần Phúc thứ 1 (1565)
Năm Bính Dần niên hiệu Chính Trị thứ 9, Mạc Thuần Phúc năm thứ 2 (1566)
Năm Đinh Mão niên hiệu Chính Trị thứ 10, Mạc Thuần Phúc năm thứ 3 (1567)
[7b] Năm Mậu Thìn niên hiệu Chính Trị thứ 11, Mạc Mậu Hợp lấy niên hiệu Sùng Khang thứ 1 (1568)
Năm Kỉ Tị niên hiệu Chính Trị thứ 12, Mạc Sùng Khang năm thứ 2 (1569)
Năm Canh Ngọ niên hiệu Chính Trị thứ 13, Mạc Sùng Khang năm thứ 3 (1560)
Năm Tân Mùi niên hiệu Chính Trị 14, Mạc Sùng Khang năm thứ 4 (1561)
Năm Nhâm Thân niên hiệu Hồng Phúc 1 đời Lê Anh Tông, Mạc Sùng Khang năm thứ 5 (1562)
Năm Quí Dậu niên hiệu Gia Thái 1 đời vua Lê Thế Tông Nghị Hoàng đế, Mạc Sùng Khang năm thứ 6 (1563)
Năm Giáp Tuất niên hiệu Gia Thái thứ 2, Mạc Sùng Khang năm thứ 7 (1564)
Năm Ất Hợi niên hiệu Gia Thái thứ 3, Mạc Sùng Khang năm thứ 8 (1565)
Năm Bính Tí niên hiệu Gia Thái thứ 4, Mạc Sùng Khang năm thứ 9 (1566)
Năm Đinh Sửu niên hiệu Gia Thái thứ 5, Mạc Sùng Khang năm thứ 10 (1567)
Năm Mậu Dần niên hiệu Quang Hưng thứ 1 đời vua Lê Thế Tông, Mạc Mậu Hợp lấy niên hiệu là Diên Thành thứ 1 (1568)
Năm Kỉ Mão niên hiệu Quang Hưng thứ 2, Mạc Diên Thành năm thứ 2 (1569)
Năm Canh Thìn niên hiệu Quang Hưng thứ 3, Mạc Diên Thành năm thứ 3 (1570)
Năm Tân Tị niên hiệu Quang Hưng thứ 4, Mạc Diên Thành năm thứ 4 (1571)
Năm Nhâm Ngọ niên hiệu Quang Hưng thứ 5, Mạc Diên Thành năm thứ 5 (1572)
Năm Quí Mùi niên hiệu Quang Hưng thứ 6, Mạc Diên Thành thứ 6 (1573)
Năm Giáp Thân niên hiệu Quang Hưng thứ 7, Mạc Diên Thành thứ 7 (1574)
Năm Ất Dậu niên hiệu Quang Hưng thứ 8, Mạc Mậu Hợp lấy niên hiệu Đoan Thái là năm thứ 1 (1575)
Năm Bính Tuất niên hiệu Quang Hưng  thứ 9, Mạc Đoan Thái năm thứ 2 (1576)
Năm Đinh Hợi niên hiệu Quang Hưng thứ 10, Mạc Đoan Thái năm thứ 3 (1577)
[8a] Năm Mậu Tí niên hiệu Quang Hưng thứ 11, Mạc Mậu Hợp niên hiệu Hưng Trị thứ 1 (1578)
Năm Kỉ Sửu niên hiệu Quang Hưng thứ 12, Mạc Hưng Trị thứ 2 (1579)
Năm Canh Dần niên hiệu Quang Hưng thứ 13, Mạc Hưng Trị năm thứ 3 (1580)
Năm Tân Mão niên hiệu Quang Hưng thứ 14, Mạc Mậu Hợp niên hiệu Hồng Ninh năm thứ 1 (1581)
Năm Nhâm Thìn niên hiệu Quang Hưng Hưng thứ 15, Mạc Hồng Ninh năm thứ 2, năm này nhà Mạc mất ngôi (1582)
Năm Quý Tị niên hiệu Quang Hưng thứ 16 (1583)
Năm Giáp Ngọ niên hiệu Quang Hưng thứ 17 (1584)
Năm Ất Mùi niên hiệu Quang Hưng thứ 18 (1585)
Năm Bính Thân niên hiệu Quang Hưng thứ 19 (1586)
Năm Đinh Dậu niên hiệu Quang Hưng thứ 20 (1587)
Năm Mậu Tuất niên hiệu Quang Hưng thứ 21 (1588)
Năm Kỉ Hợi niên hiệu Quang Hưng thứ 22 (1589)
Năm Canh Tí niên hiệu Thận Đức thứ  đời vua Lê Kính Tông Huệ Hoàng đế, năm này đổi thành niên hiệu Hoằng Định 1 (1590)
Năm Tân Sửu niên hiệu Hoằng Định thứ 2 (1591)
Năm Nhâm Dần niên hiệu Hoằng Định năm thứ 3 (1592)
Năm Quí Mão niên hiệu Hoằng Định thứ 4 (1593)
Năm Giáp Thìn niên hiệu Hoằng Định thứ 5 (1594)
Năm Ất Tị niên hiệu Hoằng Định thứ 6 (1595)
Năm Bính Ngọ niên hiệu Hoằng Định thứ 7 (1596)
[8b] Năm Đinh Mùi niên hiệu Hoằng Định thứ 8 (1597)
Năm Mậu Thân niên  hiệu Hoằng Định thứ 9 (1598)
Năm Kỉ Dậu niên hiệu Hoằng Định thứ 10 (1599)
Năm Canh Tuất niên hiệu Hoằng Định thứ 11 (1600)
Năm Tân Hợi niên hiệu Hoằng Định thứ 12 (1601)
Năm Nhâm Tí niên hiệu Hoằng Định thứ 13 (1602)
Năm Quí Sửu niên hiệu Hoằng Định thứ 14 (1603)
Năm Giáp Dần niên hiệu Hoằng Định thứ 15 (1604)
Năm Ất Mão niên hiệu Hoằng Định thứ 16 (1605)
Năm Bính Thìn niên hiệu Hoằng Định thứ 17 (1606)
Năm Đinh Tị niên hiệu Hoằng Định thứ 18 (1607)
Năm Mậu Ngọ niên hiệu Hoằng Định thứ 19 (1608)
Năm Kỉ Mùi niên hiệu Vĩnh Tộ 1 đời vua Lê Thần Tông Uyên Hoàng đế (1609)
Năm Canh Thân niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 2 (1610)
Năm Tân Dậu niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 3 (1611)
Năm Nhâm Tuất niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 4 (1612)
Năm Quí Hợi niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 5 (1613)
Năm Giáp Tí niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 6 (1614)
Năm Ất Sửu niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 7 (1615)
Năm Bính Dần niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 8 (1616).
[9a] Năm Đinh Mão niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 9 (1617)
Năm Mậu Thìn niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 (1618)
Năm Kỉ Tị niên hiệu Đức Long 1 đời vua Lê Thần Tông (1619)
Năm Canh Ngọ niên hiệu Đức Long thứ 2 (1620)
Năm Tân Mùi niên hiệu Đức Long thứ 3 (1621)
Năm Nhâm Thân niên hiệu Đức Long thứ 4 (1622)
Năm Quí Dậu niên hiệu Đức Long thứ 5 (1623)
Năm Giáp Tuât niên hiệu Đức Long thứ 6 (1624)
Tổ tiên của họ ta bắt đầu từ anh em cụ Tính Chân phủ quân di cư đến thôn Biểu Nộn lập thôn lập ấp vào năm Giáp Ngọ niên hiệu Hồng Đức đời vua Lê Thánh Tông cho đến năm trước khi cụ Trực Lượng phủ quân sinh thành là vào năm Giáp Tuất niên hiệu Đức Long thứ 6, tổng cộng 161 năm, trải 4 thế hệ từ Tính Chân phủ quân đến Đạo Hành phủ quân, Đạo Viễn phủ quân, Đạo Chính phủ quân gồm 4 đời dấu vết còn mờ mịt, vì làm nghề nông chưa từng được hiển vinh nên không có sự trạng gì để khảo cứu, mà các đời cũng đã cách xa khá lâu, phả điệp thì chẳng còn ghi chép nên chẳng biết lúc trước các vị phủ quân sinh năm nào, mất năm nào chẳng thể khảo cứu được nên chỉ có thể ghi chép về thế thứ mà thôi. Cho đến năm Dương Hòa Ất Hợi (1635) Trực Lượng phủ quân sinh thành tiếp nối về sau cho tới ngày nay mới ghi chép được tuổi thọ, sự trạng để có thể khảo cứu.
[9b] Năm Ất Hợi niên hiệu Dương Hòa thứ 1 đời vua Lê Thần Tông (1635) là năm Trực Lượng phủ quân sinh ra.
Năm Bính Tí niên hiệu Dương Hòa thứ 2 (1636)
Năm Đinh Sửu niên hiệu Dương Hòa thứ 3 (1637)
Năm Mậu Dần niên hiệu Dương Hòa thứ 4 (1638)
Năm Kỉ Mão niên hiệu Dương Hòa thứ 5 (1639)
Năm Canh Thìn niên hiệu Dương Hòa thứ 6 (1640)
Năm Tân Tị niên hiệu Dương Hòa thứ 7 (1641)
Năm Nhâm Ngọ niên hiệu Dương Hòa thứ 8 (1642)
Năm Quý Mùi niên hiệu Phúc Thái thứ 1đời vua Lê Chân Tông Thuần Hoàng đế (1643)
Năm Giáp Thân niên hiệu Phúc Thái thứ 2 (1644)
Năm Ất Dậu niên hiệu Phúc Thái thứ 3 (1645)
Năm Bính Tuất niên hiệu Phúc Thái thứ 4 (1646)
Năm Đinh Hợi niên hiệu Phúc Thái thứ 5 (1647)
Năm Mậu Tí niên hiệu Phúc Thái thứ 6 (1648)
Năm Kỉ Sửu Lê Thần Tông tái vị, đổi niên hiệu thành Khánh Đức thứ 1 (1649)
Năm Canh Dần niên hiệu Khánh Đức thứ 2 (1650)
Năm Tân Mão niên hiệu Khánh Đức thứ 3 (1651)
Năm Nhâm Thìn niên hiệu Khánh Đức thứ 4 (1652)
Năm Quí Mão niên hiệu Thịnh Đức thứ 1 đời vua Lê Thần Tông (1653)
[10a] Năm Giáp Ngọ niên hiệu Thịnh Đức thứ 2 (1654)
Năm Ất Mùi niên hiệu Thịnh Đức thứ 3 (1655)
Năm Bính Thân niên hiệu Thịnh Đức thứ 4 (1656)
Năm Đinh Dậu niên hiệu Thịnh Đức thứ 5 (1657)
Năm Mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Thọ 1 đời vua Lê Thần Tông (1658)
Năm Kỉ Hợi niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2 (1659)
Năm Canh Tí niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 3 (1660)
Năm Tân Sửu niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 4 (1661)
Năm Nhâm Dần niên hiệu Vạn Khánh thứ 1 đời vua Lê Thần Tông (1662)
Năm Quí Mão niên hiệu Cảnh Trị 1 đời vua Lê Huyền Tông Mục Hòang đế (1663)
Năm Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Trị thứ 4 (1664)
Năm Ất Tị niên hiệu Cảnh Trị thứ 5 (1665)
Năm Bính Ngọ niên hiệu Cảnh Trị thứ 6 (1666)
Năm Đinh Mùi niên hiệu Cảnh Trị thứ 5 (1667)
Năm Mậu Thân niên hiệu Cảnh Trị thứ 6 (1668)
Năm Kỉ Dậu niên hiệu Cảnh Trị thứ 7 (1669)
Năm Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 (1670)
Năm Tân Hợi niên hiệu Cảnh Trị thứ 9 (1671)
Năm Nhâm Tí niên hiệu Dương Đức 1 đời vua Lê Gia Tông Mĩ Hoàng đế (1672)
Năm Quí Sửu niên hiệu Dương Đức thứ 2 (1673)
[10b] Năm Giáp Dần niên hiệu Đức Nguyên 1 đời vua Lê Gia Tông (1674)

Thứ Hai, 22 tháng 8, 2011

Chuyện ly kỳ về rắn trắng ở đền Trần


"Ông rắn" dài khoảng 1,8m, màu trắng, có sọc màu nâu mờ chạy dọc cơ thể, trên đầu có mào màu xanh đỏ. Rất nhiều người đã chụp được ảnh rắn trắng, có người còn quay được cả video.

Bạch xà xuất hiện trên ngai vua Trần

Đền Trần là nơi thờ tự các vị vua và các vị thủy tổ triều Trần. Đền được xây dựng vào năm Chính Hòa thứ 15 (tức năm1695) trên nền đất cũ, nơi phát tích của các vị vua nhà Trần, nay là phường Lộc Vượng, Thành phố Nam định.

Từ lâu, ngôi đền thiêng đã trở thành nơi hành hương của hàng vạn người và thu hút hàng ngàn du khách mỗi năm, đặc biệt đông vào các đợt lễ lớn như hội tháng Giêng, lễ khai ấn.
Đền Trần ở Nam Định.

Từ khi có tin “thần Bạch xà” xuất hiện, ngôi đền vốn đã có tiếng linh thiêng lại càng thu hút nhiều du khách đổ về với sự tò mò và tấm lòng thành kính.

Chúng tôi vào một quán nước gần đền và lân la hỏi chuyện. Bà Hương bán nước khẳng định: “Chuyện rắn trắng xuất hiện trên ngai thờ vua Trần là có thật”.

Trao đổi với chúng tôi, ông Trần Huy Chiến (trưởng đền) và ông Phùng Văn Đồng (phó ban quản lý di tích) khẳng định chuyện “thần Bạch xà” xuất hiện trên ngai các vua Trần là có thật. “Thần bạch xà” xuất hiện trong ba ngày từ chiều 7 – 9 tháng Giêng năm Mậu Tý (tức năm 2008). Các ông còn cho biết, ngày “ông rắn” xuất hiện chính là ngày diễn ra chợ Viềng hàng năm. Như thường lệ, những người dân đi chợ, sau đó vào đền cầu xin những điều may mắn, sung túc cho gia đình.

Ông Trần Huy Chiến khẳng định có rắn trắng xuất hiện ở đền Trần.

Khi “thần Bạch xà” ngự trên ngai thờ các vua Trần thì có hàng ngàn, hàng vạn người biết. “Thấy chuyện lạ, người dân đến lễ càng đông, ai cũng kính cẩn dâng hương, nhiều người còn xin chụp ảnh. Có ông công an chụp được còn biếu lại đền, đến nay nhà đền vẫn còn lưu lại những bức ảnh của “ông rắn” như một sự tích. Hôm ấy nhà đền mở cửa cả đêm” - ông Chiến kể lại.

Như để khẳng định những điều mình nói, các ông cho người hướng dẫn chúng tôi đi thăm đền và xem những bức ảnh về “ông rắn” mà nhà đền còn lưu lại được. Nhìn bức ảnh “ông rắn” chị hướng dẫn viên cho chúng tôi biết: “Ông rắn dài khoảng 1,5m, đường kính chỗ to nhất khoảng 3cm, thân màu trắng, có một vạch màu sẫm xanh chạy dọc cơ thể”.

Sau đó, chị dẫn chúng tôi đi vào hậu điện đền Thiên Trường. Gian hậu điện thứ nhất là nơi thờ các vị thủy tổ triều Trần là Trần Kinh, Trần Hấp, Trần Lý, Trần Thừa. Gian hậu điện thứ hai là nơi thờ 14 ngai, tượng trưng cho 14 vị vua triều Trần.
Ngai vua Trần Nhân Tông - nơi rắn trắng xuất hiện.

Thứ Năm, 23 tháng 6, 2011

Bắc Kinh chưa thuộc lời dạy của Khổng Tử

Tượng Khổng Tử ở Bắc Kinh
Hiểu được sức mạnh của văn hóa, nên gần đây, bên cạnh việc tăng trưởng kinh tế, hiện đại hóa quân đội, Trung Quốc đã tăng cường công tác truyền bá văn hóa ra nước ngoài.
Đến hiện tại, nước này đã cho xây dựng hơn 150 Viện Khổng Tử trên thế giới, với mục đích quảng bá ngôn ngữ và văn hóa Trung Hoa.
Việc chọn Khổng Tử để đặt tên cho các viện không phải là ngẫu nhiên, bởi ở Trung Quốc, Khổng Tử được phong là “vạn thế sư biểu” (Biểu trưng người thầy ở mọi thời đại).
Ông là người khai sáng Nho giáo, một học phái không chỉ ngự trị ở Trung Quốc hàng ngàn năm, mà còn ảnh hưởng sang nhiều nước trong khu vực, như Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên.
Ngày nay, học thuyết Khổng Tử được nghiên cứu trên khắp thế giới.
Chúng ta trở lại sự kiện Lưu Hiểu Ba hồi năm rồi để hiểu thêm về tầm quan trọng của Khổng Tử đối với nhà nước Trung Quốc. Khi được chọn tặng giải Nobel Hòa bình 2010, Lưu Hiểu Ba đang bị giam tại Trung Quốc.
Thế mà, Ủy ban Nobel vẫn quyết định tổ chức lễ phát giải vắng mặt.
Tại Trung Quốc, trước một ngày khi lễ trao giải Nobel diễn ra, Bắc Kinh đã sáng lập giải Khổng Tử, và trao cho một nhà chính trị Đài Loan. Khi ấy, báo chí phương Tây đã ví von “Khổng Tử trước Nobel”.

Cố tình không theo?

Trung Quốc xem trọng Khổng Tử như thế, nhưng lạ thay, nước này có vẻ chỉ biết khai thác tiếng tăm của đức Khổng, bởi trong hành động, Bắc Kinh tỏ ra không hề hiểu, hoặc đã hiểu mà cố tình không làm theo lời dạy của ngài.
Chúng ta chỉ cần nhìn vào ba điểm then chốt nhất của Khổng Giáo để chứng minh cho lời nhận định trên.
1) Khổng Tử dạy: Người quân tử lấy nghĩa làm đầu, không vì lợi mà quên nghĩa.
Năm 1974, nhân thế cuộc chiến tranh Việt Nam lúc cao trào, Trung Quốc thừa cơ đánh chiếm Hoàng Sa. Nên nhớ rằng, trong thời gian đó, quan hệ Việt-Trung là đồng chí, anh em.
Năm 1988, Trung Quốc lại tấn công Trường Sa, gây thương vong cho nhiều chiến binh Việt Nam. Hai sự kiện này cả thế giới ai cũng biết. Tức Trung Quốc cũng biết rõ hành động chiếm đoạt lãnh thổ của bằng hữu mình là trước thanh thiên bạch nhật, thế mà vẫn làm.
Rõ ràng là thấy lợi quên nghĩa!
Gần đây, Trung Quốc tăng cường hiện đại hóa quân đội, xây dựng căn cứ tàu ngầm Tam Á, và ngày càng có thái độ hung hăng trên Biển Đông. Thái độ và hành động hung hăng của Trung Quốc vừa qua cả thế giới điều biết, báo đài quốc tế đã tốn nhiều giấy mực để phân tích.
Trung Quốc trao giải Khổng Tử vì Hòa bình
Giải thưởng mang tên Khổng Tử được 'sáng lập' để đối chọi với giải Nobel
Tại sao Trung Quốc lại tăng cường tấn công Biển Đông như thế mà không ngại trắng trợn vị phạm luật quốc tế, không ngại mất tình láng giềng, không ngại mang tiếng lấn lướt người yếu thế?
Câu trả lời rất đơn giản mà cả thê giới đều biết, đó là dưới lòng Biển Đông trong khu vực Trung Quốc áp đặt đường lưỡi bò có một trữ lượng dầu hỏa và khí đốt khổng lồ.
Rõ ràng lại vì lợi quên nghĩa!
2) Khổng Tử dạy: Người quân tử không sợ kẻ mạnh, không hiếp người yếu.
So với Trung Quốc, các nước có tham gia tranh chấp Biển Đông điều là nước nhỏ hơn, kinh tế kém phát triển hơn, quân lực yếu hơn.
Gần đây, Trung Quốc tăng cường ngân sách đáng kể cho quốc phòng, xây dựng căn cứ tàu ngầm Tam Á trên đảo Hải Nam. Trung Quốc cũng vừa soán ngôi Nhật Bản để trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới.
Trung Quốc lại là một trong năm nước có quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Như vậy, có thể nói rằng, dù Bắc Kinh luôn “khiêm tốn” không thừa nhân, nhưng trên thực tế, Trung Quốc là một cường quốc kinh tế, chính trị và cả quân sự.
“Tri kỉ tri bỉ”, Trung Quốc hiểu rõ vị thế của mình, và đã tận dụng lợi thế này để lấn lướt các nước trong khu vực, dùng sức mạnh để đe dọa láng giềng, không kể gì đến luật pháp quốc tế và tình nghĩa cận thân.
Rõ ràng là ỷ mạnh hiếp yếu!
3) Khổng Tử dạy: Trong quan hệ bằng hữu, lấy chữ tín làm đầu.
Trên các diễn đàn chính thức, Bắc Kinh luôn tuyên bố không cậy mạnh hiếp yếu, muốn giải quyết tranh chấp bằng hòa bình. Thế mà sự thật đã chứng minh, Trung Quốc tỏ ra "tiền hậu bất nhất".
Philippines vừa rồi tố cáo Trung Quốc nhiều lần xâm phạm lãnh hải, trong khi quan chức Bắc Kinh đến thăm Philippines để tăng cường tình hữu nghị. Tàu hải giám Trung Quốc vào trong phạm vi đặc quyền kinh tế của Việt Nam để tấn công tàu Việt Nam.
Thế mà, người phát ngôn Bộ Ngoại giao của Trung Quốc lại cáo buộc điều ngược lại, trong khi báo đài thế giới đều ghi nhận sự xâm phạm lãnh hải Việt Nam này của phía Trung Quốc.
Rồi tại diễn đàn Shangri-La 2011, trước phản ứng của Philippines, Việt Nam, Malaysia, tổng trưởng quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt lại tuyên bố mạnh mẽ rằng Trung Quốc không hề dùng sức mạnh đe dọa láng giềng, Trung Quốc theo đuổi giải pháp hòa bình...
Sau cuộc "trấn an", tàu Trung Quốc lại tiếp tục tấn công tàu Việt Nam một lần nữa.
Rõ ràng là không giữ điều tín nghĩa ?
Đức Khổng Tử răn dạy hậu thế tu thân để thành người quân tử. Thế nhưng, chỉ xét sơ ba điều cơ bản của Nho Giáo nói trên, thì đủ thấy rằng bài học cơ bản của đức Khổng đã không được Bắc Kinh học thuộc.
Như vậy, chính phủ Bắc Kinh có xứng đáng là con cháu Khổng Tử chăng? Nếu phải, thì nên chăng Bắc Kinh phải học lại Khổng Giáo trước khi truyền bá cho người.
Bài phản ánh quan điểm cá nhân của tác giả Lê Phước, một người nghiên cứu Nho giáo, hiện là nghiên cứu sinh tiến sỹ tại Đại học Versailles Saint-Quentin-En-Yvelines, vùng Ile de France, Pháp.

Thứ Sáu, 11 tháng 3, 2011

THẮP NÉN NHANG TƯỞNG NHỚ TIỀN NHÂN

(Thanhtravietnam.vn) - Giới sử học và các cơ quan chuyên môn đã thống nhất khẳng định hai danh nhân lịch sử Nguyễn Hiệu - Nguyễn Hoàn có những cống hiến to lớn đối với lịch sử dân tộc nói chung, với thành phố Hà Nội nói riêng. Nhằm tôn vinh và phát huy giá trị văn hóa mà hai danh nhân để lại, Viện Sử học cũng đã có văn bản đề nghị UBND TP Hà Nội xét đặt tên Nguyễn Hiệu - Nguyễn Hoàn cho 2 đường phố của Thủ đô và trùng tu, tôn tạo công trình tưởng niệm hai danh nhân tại làng Đa Sĩ, Kiến Hưng, Hà Đông, Hà Nội. Tuy nhiên, để làm được những việc này, góp phần thực hiện tốt Luật Di sản văn hóa thì rất cần sự vào cuộc quyết liệt hơn của các cấp chính quyền TP Hà Nội.
Làng Đa Sĩ và hai cha con Quận công Nguyễn Hiệu – Nguyễn Hoàn
Làng Đa Sĩ được coi là vùng đất liền mạch của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Đây là làng văn vật, là đất khoa bảng, quê hương của nhiều bậc hiền tài tuấn kiệt. Trước làng có tên là Đan Sĩ (Bến đợi thuốc, bến tế độ), sau vì có nhiều người đỗ đạt, làng có tới 11 Tiến sĩ trong lịch sử khoa cử Nho học phong kiến, nên được đổi tên thành Đa Sĩ. Đây cũng có thể là lý do giải thích tại sao Tham tụng, Thượng thư, Quốc sư, Viện Quận công Nguyễn Hoàn chọn vùng đất địa linh sinh nhân kiệt này làm nơi trí sĩ vào năm 65 tuổi. Dù quê gốc của ông là ở thôn Lan Khê, huyện Nông Cống, nay thuộc huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Tuy nhiên, chúng ta trước tiên phải nói đến người cha của ông, người có rất nhiều ảnh hưởng với Nguyễn Hoàn, cụ là Tham tụng, Thượng thư, Thiếu bảo, Nông Quận công Nguyễn Hiệu.

Nguyễn Hiệu
(1674 – 1735) là người sớm có chí học hành, mới 13 tuổi đã tham dự kỳ thi Ứng khoa ở Nông Cống, năm 16 tuổi đỗ hạng thứ tư kỳ thi Hương khoa Canh Ngọ - 1690, sau đó tiếp tục  đỗ Hội nguyên, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn (1700). Sau khi đỗ Tiến sĩ, Nguyễn Hiệu được cử làm Giám sát ngự sử đạo Kinh Bắc, hàm Chánh thất phẩm. Sau đó, ông lần lượt trải qua nhiều chức vụ: Giám sát ngự sử đạo Sơn Nam, Đô cấp sự trung bộ Hình (Hình khoa), Hồng lô Tự khanh, Thiêm sai Bồi tụng, Tả tư giảng và Hình bộ Tả thị lang, Thương thư bộ Binh gia Thiếu bảo, Thượng thư bộ Hình thự Thiếu bảo, Tham tụng, Thượng thư bộ Lại, hàm Thiếu bảo, tước Nông Quận công.
Bước vào quan trường năm 1702, đến 1735, ông từng làm Thượng thư (tương đương Bộ trưởng ngày nay) nhiều bộ (Lại, Binh, Hình), lúc thì phụ trách công tác tổ chức quan lại khi thì phụ trách việc quân, lúc thì phụ trách hình phạt xét xử, lúc làm thầy giáo dạy Thế tử Trịnh Giang,…ở vị trí công việc nào ông cũng để lại ấn tượng tốt đẹp.

Đặc biệt, năm 1715, khi giữ chức Thiêm sai Bồi tụng, Nguyễn Hiệu đã dâng kế sách “trị bình” – kế trị nước, an dân – và may mắn được chúa Trịnh xem và khen là có thể cất nhắc ông dùng vào những việc lớn của quốc gia, sau đó tháng Chạp cùng năm ông được thăng lên Bồi tụng (tương đương Phó Thủ tướng bây giờ).

Cuộc đời và sự nghiệp chính trị của Nguyễn Hiệu cũng để lại nhiều dấu ấn trong công tác tổ chức, tuyển chọn quan lại của triều đình Lê – Trịnh. Là người ngay thẳng, công bằng, ông không chỉ góp phần lựa chọn cho triều đình nhiều vị quan có đức, có tài mà còn giúp minh oan cho một số Tiến sĩ. Như trường hợp của Tiến sĩ Trần Đình Thu, bị nghi là gian lận trong thi cử nên mặc dù được triều đình cử giữ chức Cấp sự trung bộ Binh (Binh khoa), chúa vẫn quyết định cách hết quan chức, khoa giáp nhưng Nguyễn Hiệu kịp thời can ngăn vì sau khi điều tra không có chứng cớ nên cuối cùng Trần Đình Thu được miễn tội. Gia phả họ Nguyễn Hà chép về ông như sau: “…cụ coi việc tuyển dụng quan lại trên 10 năm nhưng không hề xin, nhận, gửi của ai, chỉ tùy theo đức hạnh, tài năng, công lao và thâm niên để cắt đặt vị trí quan chức cho mọi người, lại miễn lệ nạp tiền, nạp gạo tạ đường, sĩ phu ai ai cũng phải phục”.

Nguyễn Hiệu là một tấm gương sáng về một vị quan đầu triều thanh liêm, hết lòng tận tụy phục vụ đất nước, triều đình. Ông có uy tín rất lớn đối với triều đình Lê - Trịnh, năm 1726, khi Thanh Hóa bị nạn đói hoành hành, Bồi tụng Nguyễn Hiệu đã được triều đình tin cẩn giao cho 14 vạn quan tiền từ kho nhà nước để đi phát chẩn cho dân. Năm 1727, ông được tín nhiệm giao chức Đô Ngự sử, là Trưởng quan của Ngự sử đài, một chức quan rất trọng, chuyên trông coi việc phong hóa pháp độ.

Làm đến chức Tham tụng, Tể tướng đầu triều (tương đương Thủ tướng Chính phủ hiện nay) song Nguyễn Hiệu là người có tấm lòng rất khoan dung, nhân hậu. Cũng chỉ vì đức tính cao quý đó mà năm 1734 khi Nguyễn Hiệu có ý trì hoãn việc giết Đỗ Bá Phẩm, chúa Trịnh Giang đã giáng chức ông, không cho giữ chức Tham tụng nữa và từ Thượng thư bộ Binh chuyển làm Thượng thư bộ Hình, thự Thiếu bảo. Tuy nhiên, với tài năng, đức độ, chỉ 3 tháng sau, Nguyễn Hiệu lại được phục chức Tham tụng, Thượng thư bộ Lại, hàm Thiếu bảo.

Nguyễn Hiệu đã cống hiến trọn đời cho dân, cho nước. Đúng như Sách Đại Việt sử ký tục biên (1676 – 1789) đã chép về ông như sau: “(Nguyễn) Hiệu là người trọng hậu giữ mình ngay thẳng, thích bồi dưỡng kẻ sĩ, dắt dẫn kẻ hậu tiến. Đối với quan nhỏ cũng tiếp đãi theo lễ. Lúc tuổi già cầm đại chính, mong đổi phép tắc hà khắc, sửa phú dịch cho công bằng, nhẹ việc trưng thu thôi thúc, đều tự mình trù bàn những việc ấy, trăm họ được nhờ”. Sau khi mất, Nguyễn Hiệu được triều đình Lê – Trịnh tặng chức Thái bảo, cho lập đền thờ và truy tặng làm Trung chính Khoan hậu Đại vương, Trung đẳng Phúc thần.