GIA PHẢ (HỌ NGUYỄN HÀ)
VHv.1754/1
Dịch nghĩa:
[1a] Quyển thủ gia phả
Bài Tựa
Gia phả của họ ta từ Viện quận tướng
công mới bắt đầu biên tập thành sách nhưng việc ghi chép còn rất là sơ lược.
Cho đến tiên khảo Thuần Tĩnh phủ quân cũng vẫn phải khảo cứu và sưu tầm nhưng
cũng hết sức lược biên. Sự trạng của Viện quận tướng công mãi tới gần đây thì Trực Giản phủ
quân mới dựa vào phả cũ
biên tập và ghi chép lại đầy đủ thì hành trạng của Viện quận tướng công mới được
rõ ràng. Trong lúc ghi chép lại có một vài chỗ không phù hợp với cách chép sử bởi
lẽ nhà nho hay chữ cũng có ghi chép gia phả của gia tộc, vì gia phả là lịch sử
của dòng họ. Lịch sử của đất nước có các ghi chép theo quốc sử, gia tộc cũng có
cách biên soạn theo lịch sử gia tộc nhất định phải có sự phân biệt thân, sơ, để
sao cho làm rõ thế thứ các đời, dựa vào điều nghĩa nhưng cũng không vượt quá xa
so với thể tài vậy. Tôi (người viết bài tựa) thường đọc Tô thị tộc phả trong đó có dẫn rằng: “Từ cha của ta cho đến cụ cao
tổ của ta có làm quan hay không, lấy ai, hưởng thọ bao nhiêu tuổi, mất ngày nào
đều được ghi lại còn nếu
như người ta mà không ghi lại thì không thể biết được rằng ta từ đâu mà ra? Từ cha của ta đến các cụ cao tổ của ta
đều ghi rõ tên húy của các cụ là gì còn người ta thì chỉ viết tên mà thôi cho
nên ta cũng tôn lên được nguồn gốc ra đời của mình vậy!”, lại viết tiếp:
"Tình nghĩa thì xem xét ở mức độ thân thiết, sự thân thiết thì xét ở trang
phục , nếu trang phục càng đầy đủ thì tình nghĩa càng đậm sâu [1b], tình nghĩa đậm sâu thì là người
thân thích chứ không thể như người xa lạ không
quen biết được. Anh em thì hai người là một nhưng thật buồn là thân phận một
người mà lại bị coi như người xa lạ vì thế nên ta phải viết gia phả!”. Cách nói
ấy thực ra xuất phát từ Kinh lễ uyên thâm, ngày nay dựa vào đó mà mô phỏng dựa
theo thư pháp của Lão Tô mà đem các bản phả cũ ra để biên soạn lại, từ cụ Thủy
tổ Tính Chân phủ quân về sau cho tới cụ Cao tổ Chân Lượng phủ quân của ta ghi
chép gọi là gia phả tiền biên các đời. Từ cụ Tằng tổ Nông Quận tướng công đến
bác của ta là Ôn Cẩn phủ quân gọi là gia phả chính biên. Còn Ông của ta là Thuần Tĩnh phủ quân thì ghi chép riêng
là biệt chi, cho đến các chi nhánh khác thì đều gọi là các chi phái riêng biệt.
Bị khảo gia tiên các đời, theo thế thứ mà biên soạn theo cách trước hết là chức
tước rồi đến thụy hiệu rồi sau đó là hành trạng, sự tích, chủ yếu làm sao để giữ
được tính chân thực mà khảo chứng, luận bàn. Rồi phụ kèm các chi phái riêng biệt
cũng theo cách là tên họ rồi đến sơ lược về hành trạng, thứ đến mới các chi tiết
liên quan để làm sao làm nổi bật rõ ràng xuất thân của ta để rồi hợp với nguồn
gốc của những người mà ta chưa quen biết thành một họ thống nhất, cũng là để
làm rõ chi phái các đời trong một giềng mối thống nhất, kỉ cương. Từ nay về
sau sách vở không bị đứt đoạn, cháu con nối dõi đời đời thay nhau tu bổ,
cho đến nghìn năm sau
miêu duệ cũng có thể khảo cứu và biết rõ về cội nguồn, [2a] biết được việc của nghìn năm trước để không có gì lay chuyển
được dòng họ danh gia dù có lúc thăng trầm theo thời thế. Kẻ hậu nhân là ta vì
nghĩ tới những điều đó nên cầm bút ghi lại những dòng này.
Tiết Lập thu năm Tân Sửu niên hiệu
Thiệu Trị thứ 1 (1841).
Người cháu là Bảo kính cẩn vâng soạn
tại tỉnh Đông.
[2b] LỜI TỰA GỐC
(Đây
là lời Tựa do cụ Viện quận tướng công khi biên soạn gia phả đã viết).
Trộm nghe: Các cụ thủy tổ của ta có
người là nông dân, có người là bậc hào phú, trong họ có người phát đạt ở trường
làng, cũng có người dấn thân nơi triều chính, đắng cay mặn ngọt đường đời đã từng
nếm trải. Bậc Thánh thượng cổ vũ nho khoa thi cử để khôi phục sự nghiệp cho kẻ
hiền tài. Duy chỉ có cụ Thần khảo họ ta xuất thân nơi thôn dã, niềm vui chỉ với
bờ bãi mà được đăng khoa, khởi dựng cơ đồ cho các bậc nho sĩ của họ ta được
vinh danh từ đó. Thanh danh, văn vật của ấp ta thực tất cả nhờ vào quyền uy của
cụ Thần khảo nhà ta vậy! Cụ đúng là bậc tổ của các vị tiên hiền trong bản ấp vậy!.
Cụ Thần khảo đã trải muôn vàn khó khăn trong sự nghiệp, thừa mệnh trời ưu ái
nên được vào cung phụ giúp vua nói và làm những điều ngay thẳng., một người
lương thiện thì vạn quốc nghe theo. Ở nơi gác vàng giữ chức Tham bồi mà mà làm
điều nhân điều đức, sống vì nhân dân, vừa hiến kế sách cho vua đúng đắn mà trăm
dân được thấm nhuần. Cụ còn là bậc sống khiêm nhường, cung kính trong hành xử,
lấy sự ôn hậu để đối đãi người ngoài, làm quan ngay thẳng và cẩn thận giống như
người vác cây gậy chống vậy!. Kẻ sĩ nhớ đến cụ với ân thâm sâu sắc vì cụ đã vun
trồng tính kế lâu dài giúp cho, thế nên mới phát đạt. Công lao vĩ đại của cụ
làm rạng rỡ tổ tông, lan tỏa ánh sáng tới cháu con muôn đời. Cho nên được tắm gội
bởi ơn mưa móc là ánh sáng của bậc phúc thần là cụ nhà ta. Miếu mạo nguy nga,
điển thờ mãi mãi, xuân thu hưởng báo đáp dốc lòng vươn tới những điều tốt đẹp,
cho nên nền móng hưởng phúc lành, cánh phượng cứu giúp gia thanh rạng vẻ! Đời đời
nối dài chẳng phải là việc ngẫu nhiên mà có được!. Dấu tích chính là ở chỗ tổ
tiên được cư ở những nơi danh giá mà tinh tế thi hành những điều có ích khiến
tiếng tăm [3a] được vang xa chẳng cần
phải biểu dương hay cổ súy thì cũng đủ để răn dạy cháu con lấy truyền thống gia
đình làm cho ngày càng tốt đẹp hơn nữa, vì thế mà càng phải cẩn thận trong việc
ghi chép gia phả để lưu truyền cho cháu con, khiến cho hậu thế tử tôn được mục
sở thị để biết được những việc làm ích lợi, tốt đẹp của tổ tông, từ đó suy
nghĩ, ngưỡng mộ và làm theo. Để mà ngẫm nghĩ về thịnh đức của tổ tiên, công lao
vĩ đại phải được mãi duy trì và tuân thủ, lấy đó mà làm mô phạm để chấp hành, lấy
đó là cơm ăn áo mặc để truyền đến cho cháu con. Có như vậy thì phúc trạch của
sách vở thi thư mới có đường để mà lưu truyền mãi mãi. Nay viết ra đây làm bài
Tựa!
Ngày tốt tháng giữa đông năm Cảnh
Hưng thứ 33 (1772)
[3b] LỜI TỰA GỐC
(Khi người chú của ta là Trực Giản phủ quân biên tập gia phả thì có người
bạn của chú viết hộ bài Tựa này).
Cụ Quốc sư triều Lê là con trai cụ Quốc
sư triều trước, một nhà có 2 ngọn núi sừng sững như vậy đó! Hành trạng của cụ
có thể xem trong cuốn Nguyễn Đại gia thế đức chi phả do con trai của cụ là Tín
mới biên tập. Sách đã hoàn thành liền trưng lên cho ta xem, ta trộm nghĩ vạn vật
trong thiên hạ vốn có gốc bởi trời, con người có nguồn gốc từ tổ tiên, cho nên
có thể nói họ Đàm lấy từ sách Xuân thu để mà biên soạn sách vở bắt đầu từ Thái
sử công thế gia liệt truyện, gia tộc có gia phả cũng bắt đầu theo cách làm này
từ đó. Ta là người thường được đọc nhiều bản gia phả lớn của đất nước, các vị Hội
nguyên, Tư giảng đời nào cũng có, Tham tụng, Tư đồ đời nào cũng có, nhưng nối đời
đậu Hội nguyên, giữ chức Tư giảng, nối đời giữ chức Tham tụng, lại Tư đồ thì
xem ra khắp đất nước chẳng có ai được như cha con của cụ vậy. Người ta cho rằng
có thể qui về được phúc ấm của thế đất, có người cho rằng là nhờ âm công, vậy
mà đời cũng có cha con cụ chẳng phải là điều kì diệu mà chẳng thể định luận nổi
hay sao? Đại để rằng trong vòng trời đất này có lí, có số, khi lí số có giá trị
ngang nhau thì những người xuất thế nổi danh vậy. Từ đời Lê trung hưng về sau
đó khoảng 200 năm là thời điểm lí số cực kì thịnh trị, phúc tinh chiếu dọi, lại
xuất hiện thời kì chính chân nguyên, nghìn thu hội ngộ một thời, mà quê cụ lại
là đất trung hưng của nhà Lê, vượng khí hun đúc chung linh, thật khác biệt với
tầm thường! Cho nên, trên thì có các bậc vua nối đời kinh bang tế thế, phía dưới
có các vị tôi thần cha con nối đời [4a]
, đó chính là bí mật của tạo hóa, nhưng cũng chẳng phải bỗng dưng xuất hiện ngẫu
nhiên vậy!
Các bậc thế thần, thế khanh, thế tướng thời cổ
xuất hiện cũng là đương nhiên. Trong các bức trướng văn mừng cụ về trí sĩ của
triều đình có viết: Trời giúp dập tùy từng đất nước, tất sinh bậc tướng thần đạo đức lớn lao, thứ đến là giúp
dập cho vận nước hưng bình, xét về mặt lí số mà nói thì đó cũng là sự ứng nghiệm
vậy! Nhưng, đường công danh hơn người thì cũng có điểm sai sót hơn người, chuyện
cũ tang thương, ngắt quãng, việc biên soạn bị tàn khuyết, 10 phần chỉ còn 1,
nghìn bài văn bài thơ thì tập hợp lại cũng chẳng thể đủ được. Vì thế, con cháu
đời sau muốn tìm hiểu về văn chương của cụ thì có tuyển tập các bài văn trong
các kì thi Hội, muốn tìm tên đỗ đại khoa của cụ đã có bia đá khắc ghi, muốn biết
về công tích của cụ thì tìm đọc Lê triều
sử kí, muốn tìm hiểu về sự nghiệp quan lộ của cụ thì tìm trong thơ phú
v.v..., muốn tìm hiểu về đức độ của cụ đã có bia miệng lưu truyền ở làng xóm
quê hương, cũng chẳng nghe thấy những điều dị nghị bao giờ? Cụ quả là thần diệu
biết bao!, cho đến việc tu đạo đường đời có thể nói là cụ khi biết ẩn mình giữa
cuộc đời, khi ở vào chỗ lưu hầu khanh tướng thực hơn người, cho nên có người viết
về cụ rằng [4b]: phú quí công danh chỉ
như đám mây nổi mà thôi, trước nay quyền hành đã nếm trải đủ rồi. Để thấy rằng
ánh sáng trí tuệ của cụ vô cùng minh mẫn, có thể nhìn thấu chốn quan trường đấu
đá mệt mỏi, thực là sống ở trần gian mà chẳng nhiễm bụi trần, nhập thế rồi xuất
thế, chẳng lụy vì những thói tục thường tình, chẳng vì vật đổi mà sao phải dời,
ngang nhiên vẫy vùng giữa trời bể bao la. Khí thiêng của núi Nưa, núi Hoàng hun
đúc, cốt cách của Từ Thức, Phạm Viên tạo nên, địa linh nhân kiệt, giáng xuất có
thời, cho nên sự nghiệp mới vẻ vang, công danh hiển thế đến vậy! Sự huyền diệu
đó không thể một sớm một chiều đem cái nhãn quan của người trần và cái tâm bồng
bột ra để mà bàn luận được cho nên phải biên thành gia phả. Những điều đặc sắc
về cụ chưa thể kể đủ hết nhưng cụ nhà ta là người có ý muốn ở việc kế thừa cho
nên thu thập và biên thành gia phả, cho nên không thể xem nhẹ việc này được và
người đọc cũng phải cũng thực sự tỉ mỉ vậy.
Năm Minh Mệnh thứ 6 (1825). Kẻ hậu học
là người cùng quê tên Vô Danh thị bái đề.
[5a] NIÊN BIỂU GIA PHẢ
Năm Giáp Ngọ niên hiệu Hồng Đức thứ 5
(1474) đời vua Lê Thánh Tông Thuần Hoàng đế. Vào năm này cụ Tính Chân phủ quân
cùng anh là Thọ bắt đầu di cư đến thôn Biểu Nộn xã Vĩnh Khê huyện Nông Cống.
Năm Ất Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 6
(1475)
Năm Bính Thân niên hiệu Hồng Đức thứ
7 (1476)
Năm Đinh Dậu niên hiệu Hồng Đức thứ 8
(1477)
Năm Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức thứ 9
(1478)
Năm Kỉ Hợi niên hiệu Hồng Đức thứ 10
(1479)
Năm Canh Tí niên hiệu Hồng Đức thứ 11
(1480)
Năm Tân Sửu niên hiệu Hồng Đức thứ 12
(1481)
Năm Nhâm Dần niên hiệu Hồng Đức thứ
13 (1482)
Năm Quí Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 14
(1483)
Năm Giáp Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ
15 (1484)
Năm Ất Tị niên hiệu Hồng Đức thứ 16
(1485)
Năm Bính Ngọ niên hiệu Hồng Đức thứ
17 (1486)
Năm Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ
18 (1487)
Năm Mậu Thân niên hiệu Hồng Đức thứ
19 (1488)
[5b] Năm Kỉ Dậu niên hiệu Hồng Đức thứ 20 (1489)
Năm Canh Tuất niên hiệu Hồng Đức thứ
21 (1490)
Năm Tân Hợi niên hiệu Hồng Đức thứ 22
(1491)
Năm Nhâm Tí niên hiệu Hồng Đức thứ 23
(1492)
Năm Quí Sửu niên hiệu Hồng Đức thứ 24
(1493)
Năm Giáp Dần niên hiệu Hồng Đức thứ
25 (1494)
Năm Ất Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 26
(1495)
Năm Bính Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ
27 (1496)
Năm Đinh Tị niên hiệu Hồng Đức thứ 28
(1497)
Năm Mậu Ngọ niên hiệu Cảnh Thống thứ 1
(1498) đời vua Lê Hiến Tông Duệ Hoàng đế.
Năm Kỉ Mùi niên hiệu Cảnh Thống thứ 2
(1499)
Năm Canh Thân niên hiệu Cảnh Thống thứ
3 (1500)
Năm Tân Dậu niên hiệu Cảnh Thống thứ
4 (1501)
Năm Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống thứ
5 (1502)
Năm Qúi Hợi niên hiệu Cảnh Thống thứ
6 (1503)
Năm Giáp Tí niên hiệu Thái Trinh thứ
1 (1504) đời vua Lê Túc Tông Khâm Hoàng đế.
Năm Ất Sửu hiệu Đoan Khánh thứ 1
(1505) đời vua Lê Uy Mục Đế
Năm Bính Dần niên hiệu Đoan Khánh thứ
2 (1506)
Năm Đinh Mão niên hiệu Đoan Khánh thứ
3 (1507)
Năm Bính Thìn niên hiệu Đoan Khánh thứ
4 (1508)
[6a] Năm Kỉ Tị niên hiệu Hồng Thuận thứ 1 (1509) đời vua Lê Tương
Dực Đế
Năm Canh Ngọ niên hiệu Hồng Thuận thứ
2 (1510)
Năm Tân Mùi niên hiệu Hồng Thuận thứ
3 (1511)
Năm Nhâm Thân niên hiệu Hồng Thuận thứ
4 (1512)
Năm Quí Dậu niên hiệu HồngThuận thứ 5
(1513)
Năm Giáp Tuất niên hiệu Hồng Thuận thứ
6 (1514)
Năm Ất Hợi niên hiệu Hồng Thuận thứ 7
(1515)
Năm Bính Tí niên hiệu Quang Thiệu thứ
1 đời vua Lê Chiêu Tông Thần Hoàng đế (1516)
Năm Đinh Sửu niên hiệu Quang Thiệu thứ
2 (1517)
Năm Mậu Dần niên hiệu Quang Thiệu thứ
3 (1518)
Năm Kỉ Mão niên hiệu Quang Thiệu thứ
4 (1519)
Năm Canh Thìn niên hiệu Quang Thiệu
thứ 5 (1520)
Năm Tân Tị niên hiệu Quang Thiệu thứ
6 (1521)
Năm Nhâm Ngọ niên hiệu Thống Nguyên 1
(1522) đời vua Lê Cung Đế
Năm Quí Mùi niên hiệu Thống Nguyên thứ
2(1523)
Năm Giáp Thân niên hiệu Thống Nguyên
thứ 3 (1524)
Năm Ất Dậu niên hiệu Thống Nguyên thứ
4 (1525)
Năm Bính Tuất niên hiệu Thống Nguyên
thứ 5 (1526)
Năm Đinh Hợi - Mạc Đăng Dung tiếm
xưng, niên hiệu Minh Đức thứ 1 (1527)
Năm Mậu Tí, niên hiệu Minh Đức thứ 2
đời Mạc (1528)
[6b] Năm Kỉ Sửu, niên hiệu Minh Đức thứ 3 đời Mạc (1529)
Năm Canh Dần- Mạc Đăng Doanh tiếm
xưng, lấy niên hiệu Đại Chính 1 (1530)
Năm Tân Mão- niên hiệu Đại Chính thứ
2 đời Mạc (1531)
Năm Nhâm Thìn - niên hiệu Đại Chính
thứ 3 đời Mạc (1532)
Năm Quí Tí, niên hiệu Nguyên Hòa thứ
1 đời vua Lê Trang Tông, Mạc Đại Chính năm thứ 4 (1533)
Năm Giáp Ngọ niên hiệu Nguyên Hòa thứ
2, Mạc Đại Chính năm thứ 5 (1534)
Năm Ất Mùi niên hiệu Nguyên Hòa thứ
3, Mạc Đại Chính năm thứ 6 (1535)
Năm Bính Thân niên hiệu Nguyên Hòa thứ
4, Mạc Đại Chính năm thứ 7 (1536)
Năm Đinh Dậu niên hiệu Nguyên Hòa thứ
5, Mạc Đại Chính năm thứ 8 (1537)
Năm Canh Tí niên hiệu Nguyên Hòa thứ
6, Mạc Đại Chính năm thứ 9 (1538)
Năm Kỉ Hợi niên hiệu Nguyên Hòa thứ
7, Mạc Đại Chính năm thứ 10 (1539)
Năm Canh Tí niên hiệu Nguyên Hòa thứ
8, Mạc Đại Chính năm thứ 11 (1540)
Năm Tân Sửu niên hiệu Nguyên Hòa thứ
9, Mạc Phúc Hải tiếm xưng lấy niên hiệu là Quảng Hòa thứ 1 (1541)
Năm Nhâm Dần niên hiệu Nguyên Hòa thứ
10, Mạc Quảng Hòa thứ 2 (1542)
Năm Quí Mão niên hiệu Nguyên Hòa thứ
11, Mạc Quảng Hòa năm thứ 3 (1543)
Năm Giáp Thìn niên hiệu Nguyên Hòa thứ
12, Mạc Quảng Hòa năm thứ 4 (1544)
Năm Ất Tị niên hiệu Nguyên Hòa thứ
13, Mạc Quảng Hòa thứ 5 (1545)
Năm Bính Ngọ niên hiệu Nguyên Hòa năm
thứ 14, Mạc Quảng Hoà năm thứ 6 (1546)
Năm Đinh Mùi niên hiệu Nguyên Hòa thứ
15, Mạc Phúc Nguyên tiếm xứng lấy niên hiệu là Vĩnh Định thứ 1 (1547)
[7a] Năm Mậu Thân niên hiệu Nguyên Hòa thứ 16, Mạc Phúc Nguyên lấy
tên là Cảnh Lịch thứ 1 (1548).
Năm Kỉ Dậu niên hiệu Thuận Bình 1, đời
vua Lê Trung Tung Võ hoàng đế, Mạc Cảnh Lịch năm thứ 2 (1549)
Năm Canh Tuất niên hiệu Thuận Bình 2,
Mạc Cảnh Lịch năm thứ 3 (1550)
Năm Tân Hợi niên hiệu Thuận Bình thứ
3, Mạc Cảnh Lịch năm thứ 4 (1551)
Năm Nhâm Tí niên hiệu Thuận Bình thứ
4, Mạc Cảnh Lịch năm thứ 5 (1552)
Năm Quý Sửu niên hiệu Thuận Bình thứ
5, Mạc Cảnh Lịch năm thứ 6 (1553)
Năm Giáp Dần niên hiệu Thuận Bình thứ
6, Mạc Cảnh Lịch năm thứ 7 (1554)
Năm Ất Mão niên hiệu Thuận Bình thứ
7, Mạc Phúc Nguyên tiếm xưng lấy niên hiệu là Quang Bảo thứ 1 (1555)
Năm Bính Thình niên hiệu Thuận Bình
thứ 8, Mạc Quang Bảo năm thứ 2 (1556), Mạc Quang Bảo thứ 2.
Năm Đinh Tị niên hiệu Thiên Hựu thứ 1
đời Lê Anh Tông, Mạc Quang Bảo năm thứ 3 (1557)
Năm Mậu Ngọ niên hiệu Chính Trị thứ 1
đời Lê Anh Tông, Mạc Quang Bảo năm thứ 4 (1558)
Năm Kỉ Mùi niên hiệu Chính Trị 2
(1559)
Năm Canh Thân niên hiệu Chính Trị 3,
Mạc Quang Bảo năm thứ 6 (1560)
Năm Tân Dậu niên hiệu Chính Trị thứ
4, Mạc Quang Bảo năm thứ 7 (1561)
Năm Nhâm Tuất niên hiệu Chính Trị thứ
5, Mạc Quang Bảo năm thứ 8 (1562)
Năm Quí Hợi niên hiệu Chính Trị thứ
6, Mạc Quang Bảo thứ 9 (1563)
Năm Giáp Tí niên hiệu Chính Trị thứ
7, Mạc Quang Bảo thứ 10 (1564)
Năm Ất Sửu niên hiệu Chính Trị thứ 8,
Mạc Mậu Hậu tiếm xưng, lấy niên hiệu là Thuần Phúc thứ 1 (1565)
Năm Bính Dần niên hiệu Chính Trị thứ
9, Mạc Thuần Phúc năm thứ 2 (1566)
Năm Đinh Mão niên hiệu Chính Trị thứ
10, Mạc Thuần Phúc năm thứ 3 (1567)
[7b] Năm Mậu Thìn niên hiệu Chính Trị thứ 11, Mạc Mậu Hợp lấy niên
hiệu Sùng Khang thứ 1 (1568)
Năm Kỉ Tị niên hiệu Chính Trị thứ 12,
Mạc Sùng Khang năm thứ 2 (1569)
Năm Canh Ngọ niên hiệu Chính Trị thứ
13, Mạc Sùng Khang năm thứ 3 (1560)
Năm Tân Mùi niên hiệu Chính Trị 14, Mạc
Sùng Khang năm thứ 4 (1561)
Năm Nhâm Thân niên hiệu Hồng Phúc 1 đời
Lê Anh Tông, Mạc Sùng Khang năm thứ 5 (1562)
Năm Quí Dậu niên hiệu Gia Thái 1 đời
vua Lê Thế Tông Nghị Hoàng đế, Mạc Sùng Khang năm thứ 6 (1563)
Năm Giáp Tuất niên hiệu Gia Thái thứ
2, Mạc Sùng Khang năm thứ 7 (1564)
Năm Ất Hợi niên hiệu Gia Thái thứ 3,
Mạc Sùng Khang năm thứ 8 (1565)
Năm Bính Tí niên hiệu Gia Thái thứ 4,
Mạc Sùng Khang năm thứ 9 (1566)
Năm Đinh Sửu niên hiệu Gia Thái thứ
5, Mạc Sùng Khang năm thứ 10 (1567)
Năm Mậu Dần niên hiệu Quang Hưng thứ
1 đời vua Lê Thế Tông, Mạc Mậu Hợp lấy niên hiệu là Diên Thành thứ 1 (1568)
Năm Kỉ Mão niên hiệu Quang Hưng thứ
2, Mạc Diên Thành năm thứ 2 (1569)
Năm Canh Thìn niên hiệu Quang Hưng thứ
3, Mạc Diên Thành năm thứ 3 (1570)
Năm Tân Tị niên hiệu Quang Hưng thứ
4, Mạc Diên Thành năm thứ 4 (1571)
Năm Nhâm Ngọ niên hiệu Quang Hưng thứ
5, Mạc Diên Thành năm thứ 5 (1572)
Năm Quí Mùi niên hiệu Quang Hưng thứ
6, Mạc Diên Thành thứ 6 (1573)
Năm Giáp Thân niên hiệu Quang Hưng thứ
7, Mạc Diên Thành thứ 7 (1574)
Năm Ất Dậu niên hiệu Quang Hưng thứ
8, Mạc Mậu Hợp lấy niên hiệu Đoan Thái là năm thứ 1 (1575)
Năm Bính Tuất niên hiệu Quang
Hưng thứ 9, Mạc Đoan Thái năm thứ 2
(1576)
Năm Đinh Hợi niên hiệu Quang Hưng thứ
10, Mạc Đoan Thái năm thứ 3 (1577)
[8a] Năm Mậu Tí niên hiệu Quang Hưng thứ 11, Mạc Mậu Hợp niên hiệu
Hưng Trị thứ 1 (1578)
Năm Kỉ Sửu niên hiệu Quang Hưng thứ
12, Mạc Hưng Trị thứ 2 (1579)
Năm Canh Dần niên hiệu Quang Hưng thứ
13, Mạc Hưng Trị năm thứ 3 (1580)
Năm Tân Mão niên hiệu Quang Hưng thứ
14, Mạc Mậu Hợp niên hiệu Hồng Ninh năm thứ 1 (1581)
Năm Nhâm Thìn niên hiệu Quang Hưng
Hưng thứ 15, Mạc Hồng Ninh năm thứ 2, năm này nhà Mạc mất ngôi (1582)
Năm Quý Tị niên hiệu Quang Hưng thứ
16 (1583)
Năm Giáp Ngọ niên hiệu Quang Hưng thứ
17 (1584)
Năm Ất Mùi niên hiệu Quang Hưng thứ
18 (1585)
Năm Bính Thân niên hiệu Quang Hưng thứ
19 (1586)
Năm Đinh Dậu niên hiệu Quang Hưng thứ
20 (1587)
Năm Mậu Tuất niên hiệu Quang Hưng thứ
21 (1588)
Năm Kỉ Hợi niên hiệu Quang Hưng thứ
22 (1589)
Năm Canh Tí niên hiệu Thận Đức thứ đời vua Lê Kính Tông Huệ Hoàng đế, năm này đổi
thành niên hiệu Hoằng Định 1 (1590)
Năm Tân Sửu niên hiệu Hoằng Định thứ
2 (1591)
Năm Nhâm Dần niên hiệu Hoằng Định năm
thứ 3 (1592)
Năm Quí Mão niên hiệu Hoằng Định thứ
4 (1593)
Năm Giáp Thìn niên hiệu Hoằng Định thứ
5 (1594)
Năm Ất Tị niên hiệu Hoằng Định thứ 6
(1595)
Năm Bính Ngọ niên hiệu Hoằng Định thứ
7 (1596)
[8b] Năm Đinh Mùi niên hiệu Hoằng Định thứ 8 (1597)
Năm Mậu Thân niên hiệu Hoằng Định thứ 9 (1598)
Năm Kỉ Dậu niên hiệu Hoằng Định thứ
10 (1599)
Năm Canh Tuất niên hiệu Hoằng Định thứ
11 (1600)
Năm Tân Hợi niên hiệu Hoằng Định thứ
12 (1601)
Năm Nhâm Tí niên hiệu Hoằng Định thứ
13 (1602)
Năm Quí Sửu niên hiệu Hoằng Định thứ
14 (1603)
Năm Giáp Dần niên hiệu Hoằng Định thứ
15 (1604)
Năm Ất Mão niên hiệu Hoằng Định thứ
16 (1605)
Năm Bính Thìn niên hiệu Hoằng Định thứ
17 (1606)
Năm Đinh Tị niên hiệu Hoằng Định thứ
18 (1607)
Năm Mậu Ngọ niên hiệu Hoằng Định thứ
19 (1608)
Năm Kỉ Mùi niên hiệu Vĩnh Tộ 1 đời
vua Lê Thần Tông Uyên Hoàng đế (1609)
Năm Canh Thân niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 2
(1610)
Năm Tân Dậu niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 3
(1611)
Năm Nhâm Tuất niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 4
(1612)
Năm Quí Hợi niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 5
(1613)
Năm Giáp Tí niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 6
(1614)
Năm Ất Sửu niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 7
(1615)
Năm Bính Dần niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 8
(1616).
[9a] Năm Đinh Mão niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 9 (1617)
Năm Mậu Thìn niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10
(1618)
Năm Kỉ Tị niên hiệu Đức Long 1 đời
vua Lê Thần Tông (1619)
Năm Canh Ngọ niên hiệu Đức Long thứ 2
(1620)
Năm Tân Mùi niên hiệu Đức Long thứ 3
(1621)
Năm Nhâm Thân niên hiệu Đức Long thứ
4 (1622)
Năm Quí Dậu niên hiệu Đức Long thứ 5
(1623)
Năm Giáp Tuât niên hiệu Đức Long thứ
6 (1624)
Tổ tiên của họ ta bắt đầu từ anh em cụ
Tính Chân phủ quân di cư đến thôn Biểu Nộn lập thôn lập ấp vào năm Giáp Ngọ
niên hiệu Hồng Đức đời vua Lê Thánh Tông cho đến năm trước khi cụ Trực Lượng phủ
quân sinh thành là vào năm Giáp Tuất niên hiệu Đức Long thứ 6, tổng cộng 161
năm, trải 4 thế hệ từ Tính Chân phủ quân đến Đạo Hành phủ quân, Đạo Viễn phủ
quân, Đạo Chính phủ quân gồm 4 đời dấu vết còn mờ mịt, vì làm nghề nông chưa từng
được hiển vinh nên không có sự trạng gì để khảo cứu, mà các đời cũng đã cách xa
khá lâu, phả điệp thì chẳng còn ghi chép nên chẳng biết lúc trước các vị phủ
quân sinh năm nào, mất năm nào chẳng thể khảo cứu được nên chỉ có thể ghi chép
về thế thứ mà thôi. Cho đến năm Dương Hòa Ất Hợi (1635) Trực Lượng phủ quân
sinh thành tiếp nối về sau cho tới ngày nay mới ghi chép được tuổi thọ, sự trạng
để có thể khảo cứu.
[9b]
Năm Ất Hợi niên hiệu Dương Hòa thứ 1 đời vua Lê Thần Tông (1635) là năm Trực Lượng
phủ quân sinh ra.
Năm Bính Tí niên hiệu Dương Hòa thứ 2
(1636)
Năm Đinh Sửu niên hiệu Dương Hòa thứ
3 (1637)
Năm Mậu Dần niên hiệu Dương Hòa thứ 4
(1638)
Năm Kỉ Mão niên hiệu Dương Hòa thứ 5
(1639)
Năm Canh Thìn niên hiệu Dương Hòa thứ
6 (1640)
Năm Tân Tị niên hiệu Dương Hòa thứ 7
(1641)
Năm Nhâm Ngọ niên hiệu Dương Hòa thứ
8 (1642)
Năm Quý Mùi niên hiệu Phúc Thái thứ
1đời vua Lê Chân Tông Thuần Hoàng đế (1643)
Năm Giáp Thân niên hiệu Phúc Thái thứ
2 (1644)
Năm Ất Dậu niên hiệu Phúc Thái thứ 3
(1645)
Năm Bính Tuất niên hiệu Phúc Thái thứ
4 (1646)
Năm Đinh Hợi niên hiệu Phúc Thái thứ
5 (1647)
Năm Mậu Tí niên hiệu Phúc Thái thứ 6
(1648)
Năm Kỉ Sửu Lê Thần Tông tái vị, đổi
niên hiệu thành Khánh Đức thứ 1 (1649)
Năm Canh Dần niên hiệu Khánh Đức thứ
2 (1650)
Năm Tân Mão niên hiệu Khánh Đức thứ 3
(1651)
Năm Nhâm Thìn niên hiệu Khánh Đức thứ
4 (1652)
Năm Quí Mão niên hiệu Thịnh Đức thứ 1
đời vua Lê Thần Tông (1653)
[10a] Năm Giáp Ngọ niên hiệu Thịnh Đức thứ 2 (1654)
Năm Ất Mùi niên hiệu Thịnh Đức thứ 3
(1655)
Năm Bính Thân niên hiệu Thịnh Đức thứ
4 (1656)
Năm Đinh Dậu niên hiệu Thịnh Đức thứ
5 (1657)
Năm Mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Thọ 1 đời
vua Lê Thần Tông (1658)
Năm Kỉ Hợi niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2
(1659)
Năm Canh Tí niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 3
(1660)
Năm Tân Sửu niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 4
(1661)
Năm Nhâm Dần niên hiệu Vạn Khánh thứ
1 đời vua Lê Thần Tông (1662)
Năm Quí Mão niên hiệu Cảnh Trị 1 đời
vua Lê Huyền Tông Mục Hòang đế (1663)
Năm Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Trị thứ
4 (1664)
Năm Ất Tị
niên hiệu Cảnh Trị thứ 5 (1665)
Năm Bính
Ngọ niên hiệu Cảnh Trị thứ 6 (1666)
Năm Đinh
Mùi niên hiệu Cảnh Trị thứ 5 (1667)
Năm Mậu
Thân niên hiệu Cảnh Trị thứ 6 (1668)
Năm Kỉ Dậu
niên hiệu Cảnh Trị thứ 7 (1669)
Năm Canh
Tuất niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 (1670)
Năm Tân
Hợi niên hiệu Cảnh Trị thứ 9 (1671)
Năm Nhâm
Tí niên hiệu Dương Đức 1 đời vua Lê Gia Tông Mĩ Hoàng đế (1672)
Năm Quí
Sửu niên hiệu Dương Đức thứ 2 (1673)
[10b] Năm Giáp Dần niên hiệu Đức Nguyên
1 đời vua Lê Gia Tông (1674)
Năm này
Nông Quận tướng công sinh ra. Tộc ta từ cụ thủy tổ di cư từ năm Hồng Đức Giáp
Ngọ thứ 5 (1474) đời Lê đến năm Đức Nguyên 1 Giáp Dần (1674) tổng cộng là 201
năm, sự ra đời của Nông quận tướng công là cả một quá trình tích tụ những điều
tốt đẹp lâu dài, là qui mô phát phúc mãi mãi vậy.
Năm Ất
Mão niên hiệu Đức Nguyên 2 (1675)
Năm Bính
Thìn niên hiệu Vĩnh Trị thứ 1 đời vua Lê Hi Tông Hoàng đế (1676)
Năm Đinh
Tị niên hiệu Vĩnh Trị thứ 2 (1677)
Năm Mậu
Ngọ niên hiệu Vĩnh Trị thứ 3 (1678)
Năm Kỉ
Mùi niên hiệu Vĩnh Trị thứ 4 (1679)
Năm Canh
Thân niên hiệu Chính Hòa thứ 1 đời vua Lê Hi Tông (1680)
Năm Tân
Dậu niên hiệu Chính Hòa thứ 2 (1681)
Năm Nhâm
Tuất niên hiệu Chính Hòa thứ 3 (1682)
Năm Quí
Hợi niên hiệu Chính Hòa thứ 4 (1683)
Năm Giáp
Tí niên hiệu Chính Hòa thứ 5 (1684)
Năm Ất Sửu
niên hiệu Chính Hòa thứ 6 (1685)
Năm Bính
Dần niên hiệu Chính Hòa thứ 7 (1686)
Năm Đinh
Mão niên hiệu Chính Hòa thứ 8 (1687)
Năm Mậu
Thìn niên hiệu Chính Hòa thứ 9 (1688)
[11a] Năm Kỉ Tị niên hiệu Chính Hòa thứ
10 (1689)
Năm Canh
Ngọ niên hiệu Chính Hòa thứ 11 (1690)
Năm đó
Nông Quận công đậu Hương giải, đỗ thứ 4.
Năm Tân
Mùi niên hiệu Chính Hòa thứ 12 (1691)
Năm Nhâm
Thân niên hiệu Chính Hòa thứ 13 (1692)
Năm Quý
Dậu niên hiệu Chính Hòa thứ 14 (1693)
Năm Giáp
Tuất niên hiệu Chính Hòa thứ 15 (1694)
Năm Ất Hợi
niên hiệu Chính Hòa thứ 16 (1695)
Năm Bính
Tí niên hiệu Chính Hòa thứ 17 (1696)
Năm Đinh
Sửu niên hiệu Chính Hòa thứ 18 (1697)
Năm Mậu
Dần niên hiệu Chính Hòa thứ 19 (1698)
Năm Kỉ
Mão niên hiệu Chính Hòa thứ 20 (1699)
Năm Năm
Canh Thìn niên hiệu Chính Hòa thứ 21 (1700)
Năm này
Nông quận tướng công đỗ Hội nguyên Tiến sĩ.
Năm Tân
Tị niên hiệu Chính Hòa thứ 22 (1701)
Năm Nhâm
Ngọ niên hiệu Chính Hòa thứ 23 (1702)
Năm Quý
Mùi niên hiệu Chính Hòa thứ 24 (1703)
Năm Giáp
Thân niên hiệu Chính Hòa thứ 25 (1704)
Năm Ất Dậu
niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 1 đời vua Lê Dụ Tông (1705)
Năm Bính
Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 2 (1706)
[11b] Năm Đinh Hợi niên hiệu Vĩnh Thịnh
thứ 3 (1707)
Năm Mậu
Tí niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 4 (1708)
Năm Kỉ Sửu
niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 5 (1709)
Năm Canh
Dần niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710)
Năm Tân
Mão niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711)
Năm này
Trực Lượng phủ quân mất, phủ quân sinh năm Ất Hợi niên hiệu Dương Hòa thứ 1
(1635) đến năm nay qua đời, thọ 77 tuổi.
Năm Nhâm
Thìn niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 8 (1712)
Năm Quí
Tị niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 9 (1713). Đó là năm Viện quận tướng công sinh ra đời.
Năm Giáp
Ngọ niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 10 (1714)
Năm Ất
Mùi niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715). Năm đó Nông quận tướng công dâng sách
Trị Bình, nhập Tham tụng.
Năm Bính
Thân niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 12 (1716)
Năm Đinh
Dậu niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 13 (1717). Năm đó Nông quận tướng công phụng chức
Tả tư giảng dạy học cho con vua.
Năm Mậu
Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 14 (1718)
Năm Kỉ Hợi
niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 15 (1719)
Năm Canh
Tí niên hiệu Bảo Thái đời vua Lê Dụ Tông (1720). Năm đó Nông quận tướng công phụng
vâng ban tước Nông Lĩnh hầu.
Năm Tân
Sửu niên hiệu Bảo Thái thứ 2 (1721)
Năm Nhâm
Dần niên hiệu Bảo Thái thứ 3 (1722). Năm đó Nông quận công phụng ban tước Nông
quận công.
Năm Quí
Mão niên hiệu Bảo Thái thứ 4 (1723)
Năm Giáp
Thìn niên hiệu Bảo Thái thứ 5 (1724)
Năm Ất Tị
niên hiệu Bảo Thái thứ 6 (1725)
Năm Bính
Ngọ niên hiệu Bảo Thái thứ 7 (1726)
Năm Đinh
Mùi niên hiệu Bảo Thái thứ 8 (1727)
Năm Mậu
Thân niên hiệu Bảo Thái thứ 9 (1728)
Năm Kỉ Dậu,
Duy Phương tiếm ngôi lấy niên hiệu là Vĩnh Khánh 2 (1729)
Năm Canh
Tuất niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 2 (1730)
Năm Tân
Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 3 (1731)
Năm Nhâm
Tí niên hiệu Long Đức 1 (1732) đời vua Lê Thuần Tông Giản Hoàng đế. Năm này
Nông quân tướng công thăng chức Tham tụng. Viện quận tướng công đậu Giải nguyên
thi Hương, Đạo Chính phủ quân phụng ấm tặng Binh bộ thị lang tước Đạo Nguyên hầu.
Trực Lượng phủ quân phụng ấm tặng Đô ngự sử tước Trạch Phái hầu.
[12b] Năm Quí Sửu niên hiệu Long Đức thứ
2 (1733)
Năm Giáp
Dần niên hiệu Long Đức thứ 3 (1734)
Năm Ất
Mão niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 1 (1735) đời vua Lê Ý Tông Huy hoàng đế. Năm đó Nông
quận tướng công qua đời, tướng công sinh năm Giáp Dần Đức Nguyên 1 đến năm nay
thì mất, hưởng thọ 62 tuổi.
Năm Bính
Thìn niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736)
Năm Đinh
Tị niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 3 (1737)
Năm Mậu
Ngọ niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 4 (1738)
Năm Kỉ
Mùi niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 5 (1739)
Năm Canh
Thân niên hiệu Cảnh Hưng thứ 1 (1740) đời vua Lê Hiển Tông. Năm này Nông quận
tướng công phụng truy phong Đại vương Ôn Cẩn Phủ quân sinh.
Năm Tân
Dậu niên hiệu Cảnh Hưng thứ 2 (1741)
Năm Nhâm
Tuất niên hiệu Cảnh Hưng thứ 3 (1742)
Năm Quí
Hợi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 4 (1743). Năm đó Viện quận tướng công đỗ Hội nguyên
Tiến sĩ.
Năm Giáp
Tí nniên hiệu Cảnh Hưng thứ 5 (1744)
Năm Ất Sửu
niên hiệu Cảnh Hưng thứ 6 (1745). Năm đó Viện quận tướng công phụng sung chức Hữu
tư giảng cho thế tử con vua.
[13a] Năm Bính Dần niên hiệu Cảnh Hưng
thứ 7 (1746)
Năm Đinh
Mão niên hiệu Cảnh Hưng thứ 8 (1747)
Năm Mậu
Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (1748)
Năm Kỉ Tị
niên hiệu Cảnh Hưng thứ 10 (1749)
Năm Canh
Ngọ niên hiệu Cảnh Hưng thứ 11 (1750)
Năm Tân
Mùi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 12 (1751)
Năm Nhâm
Thân niên hiệu Cảnh Hưng 13 (1752)
Năm Quí
Dậuniên hiệu Cảnh Hưng thứ 14 (1753)
Năm Giáp
Tuất niên hiệu Cảnh Hưngthứ 15 (1754)
Năm Ất Hợi
niên hiệu Cảnh Hưng thứ 16 (1755)
Năm Bính
Tí niên hiệu Cảnh Hưng thứ 17 (1756)
Năm Đinh
Sửu niên hiệu Cảnh Hưng thứ 18 (1757)
Năm Mậu
Dần niên hiệu Cảnh Hưng thứ 19 (1758)
Năm Kỉ
Mão niên hiệu Cảnh Hưng thứ 20 (1759)
Năm Canh
Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 21 (1760)
Năm Tân
Tị niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22 (1761)
Năm Nhâm
Ngọ niên hiệu Cảnh Hưng thứ 23 (1762)
Năm Quí
Mùi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 24 (1763)
Năm Giáp
Thân niên hiệu Cảnh Hưng thứ 25 (1764)
Năm Ất Dậu
niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 (1765)
[13b] Năm Bính Tuất niên hiệu Cảnh Hưng
thứ 27 (1766)
Năm Đinh
Hợi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 28 (1767)
Năm này
Viện quận tướng công nhập Bồi tụng.
Năm Mậu
Tí niên hiệu Cảnh Hưng thứ 29 (1768)
Năm này
Viện quận tướng công phụng ban tước Thụy Trạch hầu, Trực Lượng phủ quân thừa
phúc ấm của cháu được gia tặng Công bộ Thượng thư tước Trạch Phái hầu.
Năm Kỉ Sử
niên hiệu Cảnh Hưng thứ 30 (1769)
Năm Canh
Dần niên hiệu Cảnh Hưng thứ 31 (1770). Năm này Thuần Tĩnh phủ quân sinh.
Năm Tân
Mão niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32 (1771)
Năm Nhâm
Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 33 (1772)
Năm Quí
Tị niên hiệu Cảnh Hưng thứ 34 (1773)
Năm Giáp
Ngọ niên hiệu Cảnh Hưng thứ 35 (1774)
Năm Ất
Mùi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 36 (1775). Năm này Viện quận tướng công phụng ban
tước Viện quận công, Thuần Tĩnh phủ quân nhờ phụ ấm được đãi bổ chức Hoằng tín
đại phu kiêm Quả nghị tướng quân, Trung thành môn Vệ úy xuất thân tước Thanh
Xuyên bá.
Năm Bính
Thân niên hiệu Cảnh Hưng thứ 37 (1776). Năm này Viện quân tướng công được thăng
chức Tham tụng.
[14a] Năm Đinh Dậu niên hiệu Cảnh Hưng
thứ 38 (1777), năm này Viện quận tướng công về hưu tại quê nhà, lại được vời ra
phục chức Tham tụng.
Năm Mậu
Tuất niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39 (1778)
Năm Kỉ Hợi
niên hiệu Cảnh Hưng thứ 40 (1779). Năm này Ôn Cẩn phủ quân qua đời, phủ quân
sinh năm Canh Thân niên hiệu Lê Cảnh Hưng thứ 1 đến năm nay mất thọ 40 tuổi. Viện
quận tướng công rời bỏ việc triều chính.
Năm Canh
Tí niên hiệu Cảnh Hưng thứ 41 (1780)
Năm Tân
Sửu niên hiệu Cảnh Hưng thứ 42 (1781)
Năm Nhâm
Dần niên hiệu Cảnh Hưng thứ 43 (1782)
Năm Quí
Mão niên hiệu Cảnh Hưng thứ 44 (1783)
Năm Giáp
Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 45 (1784)
Năm Ất Tị
niên hiệu Cảnh Hưng thứ 46 (1785)
Năm Bính
Ngọ niên hiệu Cảnh Hưng thứ 47 (1786). Năm đó Viện quận tướng công vì biến cố
loạn lạc của đất nước nên về cư ngụ ở xã Đa Sĩ .
Năm đó
Thuần Tĩnh phủ quân ứng nghĩa cần vương nhận Hộ giá ở bên phải vua.
[14b] Năm Mậu Thân, Nguyễn Văn Huệ ở
quân Tây Sơn ngụy xưng niên hiệu Quang Trung thứ 1 (1788).
Năm Kỉ Dậu niên hiệu Quang Trung thứ
2 (1789)
Năm Canh Tuất niên hiệu Quang Trung
thứ 3 (1790)
Năm Tân Hợi niên hiệu Quang Trung thứ
4 (1791)
Năm Nhâm Tí niên hiệu Quang Trung thứ
5 (1792). Năm này Viện quận tướng công qua đời, cụ sinh năm Quí Tị niên hiệu
Vĩnh Thịnh thứ 9 cho đến năm nay qua đời hưởng thọ 80 tuổi.
Năm Quí Sửu Nguyễn Quang Toản tiếm
xưng lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh 1 (1793)
Năm Giáp Dần niên hiệu Cảnh Thịnh thứ
2 (1794)
Năm Ất Mão niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 3
(1795)
Năm Bính Thìn niên hiệu Cảnh Thịnh thứ
4 (1796)
Năm Đinh Tị niên hiệu Cảnh Thịnh thứ
5 (1797)
Năm Mậu Ngọ niên hiệu Cảnh Thịnh thứ
6 (1798)
Năm Kỉ Mùi niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 7
(1799)
Năm Canh Thân niên hiệu Cảnh Thịnh thứ
8 (1800)
Năm Tân Dậu niên hiệu Cảnh Thịnh thứ
9, lại đổi là Quang Hưng 1 (1801)
[15a]
Hoàng triều[1] Thế tổ Cao hoàng đế Gia
Long năm thứ 1 (1802). Năm đó Thuần Tĩnh phủ quân dâng sách Vạn ngôn thư.
Năm Quí Hợi niên hiệu Gia Long thứ 2
(1803)
Năm Giáp Tí niên hiệu Gia Long thứ 3
(1804)
Năm Ất Sửu niên hiệu Gia Long thứ 4
(1805)
Năm Bính Dần niên hiệu Gia Long thứ 5
(1806)
Năm Đinh Mão niên hiệu Gia Long thứ 6
(1807)
Năm Mậu Thìn niên hiệu Gia Long thứ 7
(1808)
Năm Kỉ Tị niên hiệu Gia Long thứ 8
(1809)
Năm Canh Ngọ niên hiệu Gia Long thứ 9
(1810)
Năm Tân Mùi niên hiệu Gia Long thứ 10
(1811). Năm này Thuần Tĩnh phủ quân qua đời, cụ sinh năm Canh Dần niên hiệu Cảnh
Hưng thứ 31 đến năm này mất, thọ 42 tuổi.
[15b]
9 ĐIỀU QUI ĐỊNH VỀ PHÀM LỆ CỦA GIA PHẢ
1. Các vị gia
tiên của ta tích đức tới 200 năm nay đến Nông quận tướng công của ta mới phát
khoa danh, trở thành danh gia vọng tộc. Bắt đầu từ cụ Trực Lượng phủ quân và
Nông quận tướng công mỗi người mang một họ, cho nên đến nay biên tập và ghi
chép về gia phả lấy cụ thủy tổ là Tính Chân phủ quân đến Trực Lượng phủ quân tất
cả gồm 5 đời tập hợp lại gọi là Thế phả
tiền biên. Từ Cụ Nông quận tướng công của ta trở về sau tập hợp lại gọi là Thế phả chính biên, tất cả đều mô phỏng
theo cách viết sử vậy.
2. Tiên quân của
ta là Thuần Tĩnh phủ quân là con trai thứ 2 của cụ Viện quận tướng công, đã có
dòng trưởng thừa chính phả, duy tiên quân của ta
đức hậu lưu quang, khắc xương quyết hậu thực là tổ của bản chi ta mà gia phả lại
do ta viết nhằm tôn lên xuất xứ của tổ tiên cho nên ghi chép làm thành biệt phả
của bản chi nên biên soạn bắt đầu từ đời thứ nhất, mô phỏng theo sách Lễ kí.
3. Các vị gia
tiên căn cứ vào thế thứ biên soạn theo qui cách trước tiên là ghi chép về tước
quan, thụy hiệu rồi mới đến tên húy và hành trạng rồi đến ngày sinh, ngày mất
vào tháng năm nào không có gì là không kê cứu rõ ràng, những chi nhánh thì cũng
biên tập riêng theo chi phái riêng, việc bị khảo thì cũng căn cứ vào tên của vị
đó rồi có thêm chút hành trạng mô phỏng theo cách làm gia phả của họ Tô với
mong muốn là tôn lên nguồn gốc xuất xứ của tổ tiên ta cũng như làm rõ về nguồn
gốc ấy.
[16a]4. Nông quận tướng công, Viện quận tướng công của họ ta khoa
danh quan nghiệp giúp nước cứu đời, điều tốt đẹp ấy là điều chân thực trăm năm
sau cũng không thay đổi. Nhưng vì cả 2 cụ tổ đều là con trai thứ: Nông quận tướng
công có người anh trưởng là Điềm Chất phủ quân, Viện quận tướng công có người
anh trưởng là Tả Lạng phủ quân nhưng Điềm Chất phủ quân đã thừa tự dòng họ Phan
ở Đức Trạch, nên từ đó gia phả của họ ta liệt vào chi phái khác, bị khảo thì vẫn
theo chính phả, các sách khác cũng liệt tên hiệu của cụ vào biệt chi. Còn cụ Tả
Lạng phủ quân đương thời hiển dương công trạng nhưng lại thua kém em mình, vả lại
phúc căn hơi mỏng nên không có con thừa tự đủ để thờ cúng gia tiên nên biệt vào
hàng bị khảo, chỉ có ý nghĩa nêu danh mà thôi.
5. Các vị phu
nhân chính thất của các cụ tiên tổ có những người không có con cũng đều có ghi
chép minh bạch, còn đến các vị cơ thiếp mà sinh được con trai mới được ghi vào
phần phụ lục, con trai của vị này cũng được ghi chép sự trạng, những người có tội
hoặc làm trái thì sẽ bỏ qua luôn để giữ nghiêm luật tộc.
6. Trong phả hệ
có phân biệt họ tên của gia tiên các đời sinh con trai hay gái, chi con trai
thì đều có bị khảo đầy đủ còn chi con gái thì tra cứu trong phả cũ cũng được
ghi vào gia phả cùng với chi con trai, thậm chí cháu ngoại nuôi làm con cũng liệt
vào 1 chi, không phân biệt sang hèn nhưng đến nay thì bỏ hết, vị phủ quân nào
mà chỉ sinh con gái thì chỉ ghi có mỗi tên và lấy người nào và sinh được cháu
bao nhiêu cũng chỉ ghi chép tên ở dưới mà thôi.
7. Sự trạng của
các vị gia tiên điều quan trọng là phải đảm bảo tính chân thực chứ không được
ngụy tạo. Nay việc biên tập tuy có sự thay đổi về mặt thể cách nhưng văn chương ghi chép trong phả cũ có chỗ nào thô bỉ
về mặt văn tự thì cũng cần phải cải chính, còn lại về mặt sự trạng thì không
dám thêm thắt màu mè thêm vào.
8. Thơ văn của
các vị gia tiên đều gửi gắm vào trong đó ý chí và hành động nên việc sưu tầm và
ghi chép lại là để cất giữ làm của báu nhưng đến nay cũng được ghi chép vào gia
phả và xếp vào 2 quyển là quyển 7 và quyển 8.
9. Những di
văn với lời chúc mừng tốt đẹp tuy có liên quan tới lời xưng tán của người khác
tuy không phải bài nào cũng lấy nhưng để biểu dương vận sự, đủ để thấy những điều
tốt đẹp của gia đình cho nên cũng ghi chép ở phía sau cùng là quyển
9.
[21a] MỤC LỤC CỦA GIA PHẢ
Quyển
1: Thế phả tiền biên ghi chép về: Tính Chân phủ quân, Đạo Hành phủ quân, Đạo
Viễn phủ quân, Đạo chính phủ quân, Trực Lượng phủ quân (vị này có phụ lục ghi
chép trong gia phả họ Phan).
Quyển 2: Thế phả chính biên ghi chép về: Nông quận tướng công (có phụ lục ghi chép trong
gia phả họ Nguyễn)
Quyển 3: Thế phả chính biên ghi chép về: Viện quận
tướng công, Ôn Cẩn phủ quân.
[21b] Quyển 4: Bản
chi biệt phả, Thuần Tĩnh phủ quân
Quyển 5: Biệt phái bị khảo
Quyển 6: Lịch đại cáo sắc, di sản thờ cúng, ngày giỗ gia tiên
[22a] Quyển 7: Thơ văn của các vị tổ tiên, Thơ văn
của Nông quận tớng công, Viện quận tướng công.
Quyển 8: Thơ
văn của các vị tổ tiên, Thuần Tĩnh phủ quân thơ văn
Quyển 9: Thơ
văn chúc mừng.
.................
[23a] QUYỂN 1: THẾ PHẢ TIỀN BIÊN
Đời thứ 1: Cụ thủy tổ Tính Chân phủ quân
Cụ húy Thiệu, họ Hà nguyên quán ở xã
Yên Lãng huyện Lương Giang (nay là huyện Thụy Nguyên phủ Thiệu Thiên (nay là phủ
Thiệu Hóa). Vào năm Giáp Ngọ niên hiệu Hồng
Đức 5 đời vua Lê Thánh Tông (1474) vua ban chiếu rằng các phủ huyện trong thiên
hạ phàm nơi nào có ruộng đất hoang vu thì cho phép dân gieo xạ khai khẩn truyền
đến đời con đời cháu canh tác rồi nộp thuế. Bấy giờ, cụ cùng với anh trai là Thọ
(tên thụy bị khuyết) thấy ở thôn Biểu Nộn (nay là xã Hương Khê) xã Vĩnh Khê
(nay là xã Vĩnh Lộc) tổng Cổ Ninh (nay là tổng Cổ Định) huyện Nông Cống có các
xứ Vẩy Rộc, Chi Lan, Mao Cầu còn rất nhiều đất ruộng hoang vu bèn lập tức dâng
tấu lên xin được canh tác, Hoàng thượng bèn ra lệnh cho triều thần là Lê Lan
Hinh đi đến đo đạc trước rồi giao cấp cho hai anh em cụ, hai cụ nhân đó mà di
cư đến làng Biểu Nộn, ban đầu ngụ ở xứ Bên Vườn (nay là xứ Cồn Đá), sau đó
chiêu mộ được 15 người thủ hạ (nay bản xã có người họ Phạm nói rằng thủy tổ của
người ấy làm thủ hạ của phủ quân ở xã Thạch Khê huyện Đông Sơn cũng lưu cư ở
đó, nay nhân khẩu cũng rất đông) [23b]
bèn di cư đến xứ Mả Biều (nay là Làng Cũ), bấy giờ ấp của ta còn phụ thuộc vào
xã Vĩnh Khê, người dân trong xã ấy thường lấy sức của người mạnh để chèn ép kẻ
yếu hoặc khinh thường, phàm có sai dịch thì chỉ mình ấp của ta phải gánh chịu,
trước mối hại đó anh em cụ phủ quân của ta bèn phản kháng lại, phân chia ranh
giới để ở, dâng tấu lên xin biệt lập thành 1 xã gọi là xã Lan Khê (kiêng húy là
Hương Khê), lập hộ tịch và dân số gồm 21 binh đinh, duy chỉ có ruộng đất là
chưa có ranh giới, phủ quân xin với quan bộ Hộ xin phái người đo đạc lập giới,
phủ quân vì việc tranh chấp của dân xã Vĩnh Khê nên đầu tiên thiết kế ở 4 phía
ranh giới của bản xã, phía dưới chôn đá, phía trên đắp thành gò đất, đổi tên gọi
là Cồn Đá, Cồn Rộc... quan đo đạc thấy hiệu quả bèn phân định địa giới ruộng tư
gồm 270 mẫu, đất dân ở là 21 mẫu. Từ đó việc sinh tụ cứ thế luân phiên, phân ra
2 giáp Đông và Đoài, em cư ở giáp Đoài, trước tiên thiết lập lũy cỏ ở ấp ta,
người xã Vĩnh Khê lại đem nhổ đi, sau đó xã ấy chọn một người lính đảm đương việc
này và xua người trong xã ra tiếp tục nhổ, phải mất mấy ngày sau ấp ta mới lấy
từ Nghệ An ra hình nộm người bị chặt chân để ngầm cảnh cáo thì giáp kia mới
không dám phá nữa. Ấp ta từ đó mới được an cư lạc nghiệp, rồi xây dựng đền thờ
thần nhưng vẫn theo thần hiệu của xã Vĩnh Khê mà phụng thờ đó là Tư đồ Huyền
thánh đại vương triều Trần, được sắc phong riêng. [24a]Việc tế lễ phụng sự thần trước đây có lệ xướng ca vào tiết
xuân nhưng vì yếu tố giáo phường quá phiền hà nên phủ quân viện vào lệ cổ kiên
quyết không chịu nghe theo, bên phía xã kia lập tức kiện tụng, phủ quân kiên
quyết bãi lệ xướng ca, hàng năm vào đầu xuân đổi bằng lễ hội đấu cờ (ở phía nam
của ngôi đình bản xã có một khoảnh đất bằng, hàng năm vào ngày mồng 10 tháng
giêng, làm nền cỏ đón rước thần đến đó, trước tiên đánh 2 ván cờ chọn nam nữ
làm con cờ, có 2 con tướng, miệng hát to và 2 bên tả hữu đối lời, hoặc cũng có
thể làm một cái thuyền tre ở phía trước đình trên ao làm nơi chơi cờ, người kéo
đến xem nhiều vô kể). Phủ quân vừa lập nên làng xã vừa lưu tâm đến văn học nên
lập tức dựng trường học ở phía đông của ấp, mời thầy dạy học người xã Thạch Khê
huyện Sơn Đông (khuyết danh) nhưng là tổ của Tiến sĩ Lê Hi về trường để dạy dỗ
học trò, di chỉ của học xá này đến nay vẫn còn (tục gọi là trường học). Cụ chính
thất (không rõ họ) hiệu là Từ Nhan, sinh được 1 người con trai là Đạo Hành phủ quân.
Kính xét: Anh
em cụ Tính Chân phủ quân lúc đầu di cư, thiết lập làng xóm, xã dân công đức thật
là lớn lao, không chỉ là thủy tổ của gia tộc ta mà còn là tổ của cả ấp hay
sao?. Trong cuốn phả cũ của gia đình đã chẳng từng ghi: "Tính Chân phủ
quân là em của cụ Hà Thọ, lại chép cụ Hà Thọ sinh ra Tính Chân phủ quân nhưng
điều đó còn nghi ngờ????". Tiếc rằng thụy hiệu của cụ Hà Thọ cùng với phủ
quân và mộ phần, ngày mất chẳng có cách nào mà khảo cứu cho ra. Than ôi một
danh gia văn minh công đức triệu tạo to lớn đến như vậy mà văn hiến chẳng đủ để
khảo cứu được rõ ràng thì cũng thực quá ư sơ lược! [24b] Đến giờ vì chỉ biết 2 cụ cùng di cư một thời nên coi
là anh em, gần đây cụ Tính Chân phủ quân sinh hạ Đạo Hành phủ quân mang tới điều
tốt lành, huyết mạch được nối dài nên mới đoán định rằng Tính Chân phủ quân là cụ
thủy tổ của họ ta vậy.
Đời thứ 2: Đạo Hành phủ quân
Húy Văn Tăng[2],
là con trai trưởng của cụ Tính Chân phủ quân, cụ mất ngày 14 tháng 8, tuổi thọ
không rõ là bao nhiêu? Mộ an táng ở đầu xã xứ Cồn Đá, mạch Hợi, tọa Nhâm hướng Bính. Cụ chính thất họ Phạm (khuyết
tên húy) hiệu Từ Tại, mất ngày mồng 8 tháng 12, phần mộ cũng bị mất, sinh được
1 người con trai là Đạo Viễn phủ quân.
Kính xét: phần
mộ của cụ mọi người đều nói rằng: đó là nơi phát phúc của tộc ta vậy. Mạch đất
từ tuyệt đỉnh núi Nưa khai dẫn đến núi Tía, trải qua cửu noãn đến Vực Ác, hẻm
đá ngoằn ngoèo bẻ qua sườn núi hẹp đến núi Thục
rồi lại bắt đầu từ núi Thiếu Tổ trải qua Tiên Mộc, Trạm Lộ, Chu Lộ mà đến, [25a] lấy Cồn Vàng làm huyệt rồng ở phía sau, huyệt kết thành hình
chiếc cây thẳng đứng, có đầu ngôi như hình chiếc gối đỡ, hai bên hình như hai chiếc bút nhọn hoắt, phía trước có chiếc bảng làm án là núi Lễ Động, phía trong có núi Hổ Hoàng, ngoài
là thế rồng, nội đường phía trong là thế thu hút các nguồn nước lớn của bản xã
còn ngoại đường là nơi tụ hợp các nguồn nước của 2 tổng Đồng Xá và Cổ Định, thế
huyền vũ của nguồn nước 4 phương tụ về tạo thành dải sông kim ngưu, nước chảy
ra núi Nhị Phú hợp với ngã ba Vua Bà rồi đổ ra ngã ba cảnh đến kênh Hải Yến có
núi Thái Bình làm cửa trấn thủy sừng sững, đó là chính huyệt vậy. Sức mạnh
chính là ở Cồn Vàng nhưng thế lớn hạo đãng ứng vào 9 phía trước mặt, vén rèm chúa
xa quê có mộc tinh thanh tú, trong họ sẽ sinh ra người mình mộc, lanh lợi, hoạt
bát, trí tuệ, nhưng vô cùng thanh bạch trong lối sống, tất cả là do khí của phần
mộ cụ lan tỏa mà nên. Thêm vào đó bãi huyệt có 6 ngôi mộ thì có sao mộc giao
gia như hình chữ Tiên, người xem phong thủy nói rằng: Đời sau ắt sẽ có người là
bậc thần tiên. Sau này Viện quận tướng công chí thú việc học hành, thành tài có
lẽ cũng bắt nguồn từ lời truyền về thế đất rằng: "Đời thứ 1 li hương, đời
thứ 2 nghèo khó, đời thứ 3 mới có người đọc sách, đời thứ 4 phò tá giúp vua, đời
thứ 5 làm cận thần bên vua, đời đời nối nhau rộ trâm anh".
[25b] Đời thứ 3: Đạo Viễn phủ
quân
Húy Văn An, tục gọi là Ông Ấm, cụ là
con trai trưởng của cụ Đạo Hành phủ quân. Cụ mất ngày 24 tháng 2, hưởng thọ
không rõ bao nhiêu tuổi, mộ an táng tại xứ Đuôi Rộc đầu bản xã. Cụ chính thất họ
Nguyễn, tên húy bị khuyết, hiệu là Từ Huệ, ngày mất cùng với phần mộ đều không
rõ, sinh được 1 người con trai là cụ Đạo Chính phủ quân (có thuyết nói rằng Đạo
Chính phủ quân là em của Đạo Viễn phủ quân, đến nay vẫn còn tồn nghi???).
Đời thứ 4: Đời Lê ấm tặng Binh bộ Tả thị lang tước Đạo Nguyên hầu Đạo
Chính phủ quân
Húy Văn Lộc, lại húy là Bút, ban đầu
giữ chức Tổng trưởng, người đời gọi là Tổng Bút, cụ mất ngày 13 tháng 5, tuổi
thọ không rõ là bao nhiêu, mộ an táng tại xứ Cồn Vàng đầu bản xã, hình như con
trâu nằm. Lúc mới an táng ở phía trên rốn đến năm Chính Hòa thứ 18 đó là năm
Đinh Sửu Nông quận tướng công chưa đỗ đạt, Từ Đoan phu nhân mời Tham chính của
bản xã là Trần Thọ (người xã Điền Trì huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương, đỗ Tiến sĩ
khoa Canh Tất niên hiệu Cảnh Trị 8) đổi dời lên giữa rốn [26a] tọa Dần hướng Thân, đó là vùng đất phát đạt khoa giáp
của họ ta vậy. Cụ chính thất họ Lê húy Nhiễm hiệu Từ Ý, mất ngày 11 tháng
giêng, hưởng thọ bao nhiêu tuổi không rõ, an táng tại xứ Lưỡi Rồng Đồng Trùng,
tọa Nhâm hướng Bính. Năm Nhâm Tí niên hiệu Long Đức thứ 1 (1732), phủ quân vì
được hưởng phúc ấm của cháu nên được tặng Binh bộ Tả thị lang tước Đạo Nguyên hầu.
Cụ chính thất tặng Chính Phu nhân, sinh được 3 người con trai, con trai trưởng
là Trực Lượng phủ quân, làm con nuôi họ Phan ở Đức Trạch, con trai thứ là Văn
Trinh, con trai thứ 3 là Văn Tường, một người con gái là Từ Đoan phu
nhân (húy là Thị Đuôi, lúc nhỏ hay theo mẹ nên mẹ thường mắng là đi theo như
cái đuôi nên đặt tên như vậy, lấy chồng là ông Nguyễn Hữu Pháp người bản xã, là
cha mẹ nuôi của
cụ Nông quận tướng công,
sự tích này xem ở phụ lục phía sau).
Kính xét: phần mộ của cụ bắt nguồn từ núi Tổ
và núi Nưa, long mạch cũng giống như Cồn Đá, mà Cồn Đá là mạch ở phía ngoài, mạch
tự tạo ra như hình rồng quay về với tổ tiên, cách tuyệt đỉnh núi Nưa như hai
chiếc bút hướng lên trời xanh, khai dẫn xuống phía dưới như hình rồng, phía dưới
lại có núi Tía làm án tiền, phía sau gối đầu vào núi Đông Xá, Tráng Cơ, Phú Điền
tạo thành hình ngũ nhạc, phía trước nhận nguồn nước của các xã Vĩnh Khê, Vân Cổn,
Hà Mi, núi Lễ Động trấn ở phía cửa trước, thế lớn không được như Cồn Đá nhưng lại
được phong tỏa chặt chẽ, huyệt phát ở bên cạnh vậy. Vả lại bản chất của loài
trâu là chậm rãi nên bản tộc sẽ sinh ra người hình Thổ, thuần hậu khoan thai,
đó chính là do nhận được cái linh khí của phần mộ đó vậy! [26b] Sách phong thủy cũ nói rằng: “Đất Lan Khê sẽ sinh bậc hiền
tài”. Lại nói: “Huyệt ở phía sau đồng hình như trâu nằm, táng ở giữa rốn nên đời
đời sẽ có công hầu”. Nay xét phần mộ này, vừa di dời được 3 năm thì Nông quận
tướng công đỗ thi Hội, và 17 năm sau Viện quận tướng công sinh ra và 47 tuổi đậu
thi Hội, quả là rất ứng nghiệm vậy!.
Đời thứ 5: Đời Lê ấm tặng Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu chức Ngự sử
đài Đô ngự sử, Gia tặng Công bộ thượng thư tước Trạch Phái hầu hiệu Mẫn Trai thụy
Trực Lượng phủ quân.
Cụ húy Thể, lại húy là Tá Trung (gia
phả họ Hà Viết là Sĩ Trung) , là con trai trưởng của cụ Đạo Chính phủ quân, là
con nuôi của cụ Phan Phúc Thông ở Đức Trạch. Cụ sinh năm Ất Hợi niên hiệu Dương
Hòa đời vua Lê Thần Tông, ngày tháng năm sinh bị khuyết. Trước kia khi cụ Đạo
Chính phủ quân làm Tổng trưởng, vì có việc công nên cụ phải lên kinh, nên dẫn phủ
quân đồng hành theo, trên đường đi qua xã Đức Trạch huyện Thượng Phúc báo tin
vui, vì có người quen là cụ Phan Thắng
bèn hỏi thăm biết được nhà ông họ Phan khá giả mà không có con nối dõi, thấy cụ
bèn ngỏ ý xin làm con nuôi để nối dõi tông đường. Đạo Chính phủ quân đồng ý,
ông họ Phan bèn tặng một 180 văn tiền làm tiền lộ phí lên đường. Từ đó cụ bèn ở
lại Đức Trạch với người cha nuôi họ Phan, lớn hơn một chút cụ được [27a] học hành để biết chữ. Xã Đức Trạch
vốn là dân tạo lệ của Quốc tử giám nên cụ thường theo đó mà đảm đương công việc.
Một ngày Thượng thư Nguyễn Quý Đức (Thám hoa khoa Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Trị
người xã Thiên Mỗ huyện Từ Liêm) tới Minh Luân Đường khảo thí, nhân đó hỏi han
sơ qua các kẻ sĩ, có một người đối đáp bị sai xót, quan Thượng thư trách phạt
khiến người đó rất sợ hãi mà không thể trả lời được.Cụ đang cắt cỏ ngoài sân đối
đáp thay rất rõ ràng. Quan Thượng thư vui mừng triệu đến trước mặt hỏi thăm,
khen ngợi cụ, nhân đó nói với dân xã cho cụ được miễn công dịch để đi học, sau
này cụ thi Hương đậu Tam trường. Đây là người mở đầu cho nghiệp khoa cử, văn học
của họ ta vậy. Cụ mất ngày mồng 9 tháng 5 năm Tân Mão niên hiệu Vĩnh Thịnh đời
vua Lê Dụ Tông, hưởng thọ 77 tuổi, mộ an táng tại xứ Mả Cố đầu xã Đức Trạch. Cụ
chính thất họ Lê húy La hiệu Đoan Thục (gia phả ở Đức Trạch ghi là Từ Thục) người
thôn Vĩnh Phúc xã Chương Lộc huyện Thượng Phúc. Cụ mất ngày 17 tháng giêng năm Ất
Tị niên hiệu Bảo Thái thứ 6 đời vua Lê Dụ Tông, hưởng thọ 85 tuổi, mộ cụ an
táng tại xứ Gò đất Bên Chùa xã Đô Quan.
Vào năm Nhâm Tí niên hiệu Long Đức 1
đời vua Lê Thuần Tông cụ nhờ phúc của con nên được ấm tặng Đô ngự sử tước Trạch
Phái hầu. Năm Mậu Tí niên hiệu Cảnh Hưng thứ 29 đời vua Lê Hiển Tông nhờ phúc ấm
của cháu nên được gia tặng Công bộ Thượng thư vẫn giữ tước như cũ. [27b] Cụ chính thất tặng Chính phủ nhân, sinh được 5 người con
trai, con trưởng là Điềm Chất phủ quân, thứ 2 là Công Kính, thứ 3 là Minh Phụ,
thứ 4 là Nông quận tướng công, thứ 5 tên là Chấn. Sinh được 4 người con gái:
con trưởng là Thị Sơn (sinh năm Đinh Tị, lấy chồng người xã Đức Trạch, hiệu là
Bà Thiếu, sinh ra Thị nội giám chí sĩ Luận Trung hầu), con gái thứ 2 là Thị Hằng
(sinh năm Đinh Mùi, lấy chồng người xã Đức Trạch, hiệu là Cô Duyên); con gái thứ
3 là Thị Hán (sinh năm Ất Sửu, lấy chồng người xã Đức Trạch, sinh ra Chính Dự);
con gái út là Thị Hanh (sinh năm Qú Mão, quay về sống ở Hương Khê lấy họ Hà
theo tổ, lấy chồng người cùng xã, sinh con là Nguyễn Khâm, cháu là Nguyễn Phụng
đều làm Cai hợp, tằng tôn là Nguyễn Thưởng, huyền tôn là Nguyễn Sâm, Nguyễn
Thông đều giữ chức Xã trưởng).
Kính xét: Bản thân cụ xuất phát từ cảnh bần hàn
mới theo nghiệp học hành, tham dự nhiều trường lớp như là người gieo trồng điều
tốt đẹp, sinh con giỏi giang để làm rạng rỡ dòng họ trâm anh thế phiệt, quả là đem
lại ích lợi cho họ ta vậy. Luận về 2 cụ Tính Chân phủ quân lập xã di dân truyền
điều tốt lành tới con cháu, cụ Nông quận tướng công khoa danh lỗi lạc mới đem đến
danh thanh để danh tiếng của dòng họ ta trăm đời vang xa, đến Trực Lượng phủ
quân lại nối dài nghiệp đèn sách di phúc ấm tới Nông quận tướng công, nói về
công đức của các cụ thì đều thực là muôn đời bất hủ!
[28a] Phụ lục về thế hệ cụ tổ
nuôi họ Phan ở Đức Trạch
Cụ tổ là Bảo Phúc phủ quân họ Phan,
tên húy bị khuyết, người xã Đức Trạch huyện Thượng Phúc phủ Thường Tín, cụ mất
ngày mồng 4 tháng 4, hưởng thọ bao nhiêu tuổi không rõ, mộ táng tại xứ Đồng Thượng
xã Đức Trạch. Bảo Phúc phủ quân sinh ra Vô Vi phủ quân, tên húy cũng bị khuyết,
cụ mất ngày 23 tháng 6, hưởng thọ bao nhiêu tuổi không rõ, mộ táng tại xứ Đồng
Thửa xã Hà Hồi. Cụ chính thất họ Phan (gia phả ở Đức Trạch ghi là họ Hoàng) hiệu
Từ Ân, tên húy bị khuyết, người xã Đô Quan, mất ngày 27 tháng giêng (gia phả Đức
Trạch ghi là ngày 17), mộ an táng tại xứ Đồng Đăng Cây Bãi. Vô Vi phủ quân sinh ra Phúc Thông phủ quân
húy Thắng, mất ngày mồng 1 tháng 2, hưởng thọ bao nhiêu tuổi không rõ, an táng
tại gò đất xứ Câu Đề. Cụ chính thất họ Đỗ húy Ban hiệu là Từ Chí, mất ngày 25
tháng 3 (gia phả ở Đức Trạch ghi là ngày 15 tháng 2), an táng tại Long xứ Hạ Lại.
Cụ Phúc Thông phủ quân chính là cha nuôi của cụ Trực Lượng phủ quân.
[Từ tờ 29 a đến tờ 34 a là phần Gia phả
chính biên,, bắt đầu từ hành trạng của cụ Nguyễn
Hiệu, về cơ bản là giống với
gia phả của gia đình, tuy nhiên có 1 số
khác biệt với gia phả của dòng họ Nguyễn Hà rất đáng để tham khảo, chỉnh lí, bổ sung].
Kiến nghị Gia đình bổ sung thêm vào
sau phần hành trạng của cụ trong gia phả các dữ liệu sau:
[31a] ....Năm Canh Tí niên hiệu Bảo Thái thứ 1
(1720) sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Lê Dụ Tông, lễ xong, suy ân thăng cụ
lên chức Lại bộ thị lang, ban tước Nông Lĩnh hầu. Cụ làm quan tuyển chọn quan lại
tới 10 năm trời, việc thuyên bổ các chức dịch hàng năm vô cùng vất vả nhưng cụ
vẫn xin cho các viên chức bình thường được miễn khoản tiền, gạo gọi là lễ tạ
(lúc bấy giờ có lệ lễ tạ đường), còn những người đương nhiệm có từ chối hay nhận
lễ thì cũng tùy nghi mà đơn giản hay phức tạp mà theo chứ không bắt buộc. Cho
nên lúc ấy các bậc sĩ phu không ai là không cảm kích ân đức của cụ...
[34a] ...Năm Quí Mão (1783), Trịnh Tĩnh Vương
lên ngôi, gia phong các chữ: Khai Tiên Dụ Hậu. Cũng năm đó vào tháng 7 cụ được
thăng Thượng Đẳng Phúc Thần, gia phong thêm các mĩ tự Tạo Tựu Khang Tế Hiển
Khánh....
[34b].... Việc thờ tự của cụ kéo dài đến khi nhà Lê mất, người
trong họ li tán tứ phương, vì thế việc tế lễ phụng sự của bản xã dần dần phế bỏ,
sau đó bản tộc có đề nghị cung tiến số đất, ao là 10 mẫu 5 sào 10 thước và số
tiền là 100 quan tăng cấp cho bản xã để làm chi phí lo liệu việc thờ tự cụ. Đến
tháng 2 năm Gia Long thứ 10 (1811) bản xã nhận lấy số ruộng, ao, đất và số tiền
để lo việc thờ tự. Từ đó việc phụng thờ mới quay trở lại như xưa. Năm Mậu Tí
niên hiệu Minh Mệnh thứ 9 (1828) đền thờ bị hủy hoại mới cải tạo lại nội đường,
dùng gạch để xây tường, dựng cột gạch, duy có kèo cột thì dùng gỗ còn lại lát gạch,
kể cả bệ hè, từ đường thờ phía ngoài thì dùng gỗ tốt thiết kế theo đúng qui chế,
phía trước tuy nhỏ hẹp nhưng rất kiên cố. Trước đây cụ ông đối xử với người
ngoài rất trọng hậu, lấy sự ngay thẳng để giữ mình, tự nhiên như phẩm cách của
cụ vậy, không kiếm cớ để màu mè giả tạo, cụ cư quan 35 năm nhưng sống thanh bạch
mà khiêm nhường, tự rèn rũa mà chẳng cố tạo ra oai vệ, tuy thân quý như khanh
tướng mà vẫn dùng lễ để tiếp đón các bậc sĩ đại phu, chưa bao giờ nhận một vái
lạy của ai, cũng chẳng xưng hô vai vế rườm ra, cho đến việc giúp đỡ các kẻ sĩ
sau đó được tiến bộ như Trần Đình Thu, Trần Danh Tiêu[3],
Vũ Danh Toại cũng chẳng có ý tơ hào tư túi, cụ là người thi hành việc chính sự
mà lại rộng lòng nhân thứ, khi xét xử ở pháp đình, việc luận tội tù nhân phần
nhiều dựa vào lòng khoan dung độ lượng, mỗi khi bị chỉ định vào việc luận tội nặng
cụ đều tìm cách ủy thác hoặc kiên quyết không chịu đề bút đưa riêng ý kiến của
mình vào việc nghị luận hoặc nhất định từ chối [35a], cụ thường nói: "Người phạm tội đáng bị trừng phạt nhưng
chỉ vì một nét bút của ta mà người đó phải chịu hình phạt thì trong tâm tư thực
sự không muốn chút nào!". Các địa phương ở nơi đâu mỗi khi có việc chẳng
lành cụ tận lực đề đạt với triều đình tùy theo từng địa phương để tận lực cứu
giúp, khiến cho tất cả những người dân yếu kém mỏi mòn có chỗ dựa vào cụ. Từ hạng
dân đen nơi ngõ nhỏ cũng không tiếc lời ca tụng về cụ..
[35a] Bổ sung thêm về hành trạng
các phu nhân và các con cụ Nguyễn Hiệu như sau:
- Cụ Chính thất họ Tống húy Xuân, là
con gái của cụ Tiến sĩ Tống Nho người xã Tiên Mộc của bản huyện, cụ ông lấy cụ
bà từ thuở hàn vi. Cụ bà mất ngày 30 tháng 10 năm Bính Tuất, tặng Quận phu nhân
hiệu Trinh Khiết, thọ 33 tuổi, cụ không sinh con.
- Cụ kế thất Lê Thị Duyên, là cháu
gái của cụ chính thất, cụ mất ngày 26 tháng 11 năm Bính Thân hiệu Đoan Tĩnh, hưởng
thọ 31 tuổi, sinh 1 người con trai.
- Cụ á thất Nguyễn Thị Huệ, là con
gái cụ họ Nguyễn chức Đô tổng binh sứ về
hưu tước Giai Thọ hầu quê xã Hữu Vĩnh huyện Hoằng Hóa. Cụ mất ngày 24 tháng
giêng, hiệu Phương Dung, thọ 30 tuổi, mộ táng tại xứ Cồn Rộc (Lốc) xã Vĩnh Khê,
được ấm tặng Quận phu nhân, sinh 1 người con trai và 2 người con gái.
- Cụ thứ thất Nguyễn Thị Thơm, là em
gái của cụ á thất, mất ngày 16 tháng 12 hiệu Từ Đoan, tặng Chính phu nhân, thọ
64 tuổi, mộ táng tại xứ Cồn Chợ xã Cẩm Xá, sinh 5 con trai và 2 con gái.
Ngoài ra một số người thiếp của cụ
cũng sinh được con trai và con gái tất cả 5 người. (thiếp là Thị Nhạn sinh người
con trai thứ 5 cho cụ là Hân, rất đáng được biên chép vào gia phả nhưng vì bị
ghẻ lạnh nên cũng bị tước mất quyền).
Cụ sinh được 8 người con trai là: cụ
Nghi, cụ Viện quận tướng công Nguyễn Hòan, cụ Đàm, cụ Hợi, cụ Hân, cụ Nhâm, cụ
Trác, cụ Tiệp.
8 người con gái của cụ là:
1. Thị Ân, sinh năm Tân Mão, là con gái của cụ á thất họ Nguyễn, chị cùng
mẹ với cụ Viện quận tướng công, lấy chồng là Trương Lệ người thân với bên ngoại
cụ quê xã Như Quỳnh huyện Gia Lâm. Được phong Quận phu nhân, mất ngày 13 tháng
10 năm Mậu Thân, thọ 79 tuổi, sinh ra quan Tự khanh Trương Tước, Tước lại sinh
ra Giáo phường Trương Đồng, Đồng lại sinh ra Trương Tiêu, Trương Xuyền, Trương
Nghi nay còn cả.
2. Thị Đoàn, sinh năm Giáp Ngọ, em cùng mẹ với cụ Viện quận tướng
công, lấy Tiến sĩ Thượng thư Đào Xuân Lan người xã Hà Mi thuộc bản huyện. Cụ mất
ngày mồng 2 tháng 5 hiệu Từ Thận phủ quân, thọ 69 tuổi, không có con, là Hậu thần
của bản xã và xã Hà Mi, nay trên bia có khắc ghi.
3. Thị Thu, sinh năm Kỉ Hợi, là con của cụ thứ thất họ Nguyễn, em gái
của cụ Nguyễn Hợi , lấy chồng là Tiến sĩ Nguyễn Bá Quýnh người xã Hoa Lâm huyện
Nam Đường, chồng mất cụ sống vậy thủ tiết,
chỉ sinh được 1 người con gái gả lấy con trai Tiến sĩ Hồ Phi Tích ở xã Hoàn Hậu
huyện Quỳnh Lưu tên là Hồ Phi Thống, chồng cụ làm quan đến chức Thiếu doãn phủ
Phụng Thiên, nay con cháu của họ vẫn còn.
4. Thị Quyển, sinh năm Giáp Thân, là em cùng mẹ với cụ Nguyễn Đàm, lấy
Đồng tri phủ Trịnh Duy người xã Sóc Sơn huyện Vĩnh Lộc.
5. Thị Uyển, sinh năm Bính Thân, là con của người thiếp tên là Thị Điểm,
lấy Tiến sĩ Nguyễn Đức Hoằng[4]
người xã Nguyễn Xá huyện Thụy Nguyên, chồng mất sớm cụ thủ tiếtcả đời.
6. Thị Ỷ[5],
sinh năm Bính Thìn, là con gái của người thiếp là Thị Chẩn, gả chồng là Tiến Sĩ
Nguyễn Lê Như Tân con của Tiến sĩ Lê Như Kì người xã An Xá huyện Thụy Nguyên.
7. Thị Tịnh[6],
sinh năm Giáp Thìn, là con của người thiếp tên là Sí[7], lấy
Tạo sĩ Trịnh Hoằng người xã Sóc Sơn.
8. Thị Diệu, sinh năm Ất Mão, là con của người thiếp tên là Yên (Yến)
cũng lấy chồng là Tạo sĩ Trịnh Hoằng.
Kính xét: Cụ tằng tổ Nông quận tướng công của
ta văn chương khoa giáp khai sáng gia thanh mà công lao giúp nước vô cùng vĩ đại.
[37a] Làm danh tướng một thời, nhưng đức độ
khoan hòa, rộng mở qui mô, tất cả đã được khảo cứu ở những tài liệu lịch sử
đáng tin cậy, người đời sau thêm vào càng làm phong phú hơn ra. Huân nghiệp của
cụ cũng có thể luận mà rằng: " Vào niên hiệu Vĩnh Thịnh, Bảo Thái khi Nhân
Vương đang thời trị vì, 2 vị quê ở Phù Chẩn và Thanh Mai được vua cho chuyên
chính mặc dù có nhiều đổi mới nhưng kiên quyết không thêm chức quan đảm nhiệm
nên không được lòng người. Đến khi 2 vị ở Lan Khê và Kim Sơn kế vị rất thức thời
phục vụ chính thể lại khoan hòa tùy thời mà liệu việc nên đều được coi là bậc
danh tướng thời xưa vậy. Đức và tài lớn lao như vậy rất đáng được nêu gương trong
sách vở không thể đem ra để so sánh với những vị thần tham quyền cố vị. Đó là
những lời lẽ hết sức chân thành vậy!". Công đức lớn lao của tiên công ta,
đời đời được bồi đắp, thư hương nối dài, hậu nhân ta có thể căn cứ vào sách vở,
thư tịch để mà thưởng thức dư âm của những điều tốt đẹp còn những chỗ còn chưa
được vì thế mà cũng có thể lượng thứ vậy!
[37a] Phụ lục về cụ dưỡng tổ
Nguyễn Hữu Pháp
Đời Lê ấm tặng Hình bộ Tả thị lang tước
Nghĩa Khê hầu thụy Cương Dũng Nguyễn phủ quân húy Hữu Phùng, người xã Lan Khê
huyện Nông Cống, cụ mất ngày 28 tháng giêng năm nào không rõ?, mộ an táng tại xứ
Vẩy Rộc Cồn Ban. Năm Nhâm Tí niên hiệu Long Đức thứ 1 vì hưởng phúc của cháu
nên được ấm tặng chức tước. Cụ chính thất họ Phạm hiệu Từ Đức, mất ngày 27 tháng
7 cũng an táng tại xứ Vẩy Rộc Cồn Ban, vì hưởng phúc của cháu nuôi nên được tặng
Chính phu nhân. Cụ sinh hạ Thiện Nghị phủ quân.
Đời Lê giữ chức Chỉ huy Thiêm sự tước
Triều Uy hầu, ấm tặng Đô ngự sử, gia tặng Công bộ thượng thư tước Lễ Sơn hầu thụy
Thiện Nghị Nguyễn phủ quân húy Hữu Pháp, cụ sinh năm Nhâm Thân. Là người được xếp
vào bậc hào hữu trong làng, gia sản rất nhiều, hội binh chiêu mộ tráng sĩ ứng mộ
tòng quân, lập công nên được nhậm chức Chỉ huy thiêm sự tước Triều Uy hầu, đã tới
lúc về hưu mà chẳng có con nối dõi nên gắng sức hành thiện, nơi nào có chùa
tháp bị hủy hoại cụ đều quyên góp gia sản tu tạo lại. Lại thường đi khắp làng hỏi
xem người nào còn đói ăn, thiếu thốn lập tức ban phát thóc gaọ, kê khai số khẩu
rồi cứu đói chứ không bao giờ tính lời tính lãi, cụ lại xuất điền sản làm Hậu
thần của bản xã. Sau này nuôi dưỡng Nông quận tướng công làm con nuôi. Cụ mất
ngày 14 tháng 8 năm Giáp Thân, hưởng thọ 73 tuổi, mộ táng tại xứ Vẩy Rộc Cồn Đến,
mạch Cấn, tọa Kỉ hướng Hợi. [37b]
Năm Nhâm Tí niên hiệu Long Đức thứ 1, vì hưởng phúc ấm của con nuôi nên cụ được
tặng chức Đô ngự sử tước Lễ Sơn hầu. Năm Nhâm Tí niên hiệu Cảnh Hưng thứ 29, vì
hưởng phúc ấm của con nên được tặng Công bộ thượng thư, giữ tước cũ. Cụ chính
thất họ Hà húy Đuôi hiệu Từ Đoan phu nhân, là con của cụ Đạo Chính phủ quân. Cụ
bà sinh năm Giáp Thân, mất ngày mồng 9 tháng 3 năm Mậu Thân, hưởng thọ 85 tuổi,
mộ an táng tại xứ Vườn Ông Tạo, mạch Tốn, tọa Canh hướng Giáp, sau vì hưởng ấm
của con nuôi nên được tặng Chính phu nhân.
QUYỂN 3: THẾ PHẢ CHÍNH BIÊN- ĐỜI THỨ
7
[38a] Phần
tiếp theo là hành trạng của cụ Viện quận tướng công Nguyễn Hoàn, về cơ bản là giống với phần hành trạng của cụ trong cuốn gia phả của
dòng họ đã in]
Kiến nghị gia đình cần chỉnh lí và bổ
sung 1 số chi tiết như sau:
[40a] ... Năm Bính Dần (1746), tháng 3 cụ sung
chức đồng khảo chấm ở trường thi Hội, tháng 4 cụ được thăng chức Giám sát ngự sử đạo Kinh Bắc.
Năm Đinh Mão sung làm phúc khảo kì thi Hương ở trường thi Kinh Bắc.....
...Năm Tân Mùi (1751) tháng 12 vì cụ
có công trong việc giữ phủ chúa giúp vua nên được thăng thêm 1 bậc nhâm chức
Hàn lâm viện Hiệu thảo. Năm Nhâm Thân (1752) sung làm phúc khảo trường thi Bác[8] cử
(chọn người học rộng). Năm Quí Dậu tháng 5, sung chức Thiêm sai tri lễ phiên,
tháng 10 sung làm giám khảo trưởng thi Phụng Thiên, năm Giáp Tuất (1754) tháng
11 phụng việc giảm trừ lệ thuế ở hiệu Bình Đông. Năm Ất Hợi (1755), tháng 4,
thăng chức Đề hình.
....Năm Đinh Sửu, tháng 9 (1757) sung
khảo thí khoa Sĩ vọng, tháng 11 truy ân thăng 1 chức bậc làm Hàn lâm viện hiệu
lí, phủ doãn phủ Phụng Thiên. Năm Mậu Dần (1758) Trịnh Sâm tiến phong Thái úy tổng
chính cơ tĩnh Quốc công khai lượng quốc phủ.
[47a]...
Năm đó thi Hương, em cụ là Trác cùng người trong họ tên là Châu gian trá với
quan ở trường thi cùng dự thi trúng cách, bên ngoài dư luận bàn tán, cụ mới hay
tin lập tức cho gọi cụ Trác tới trách mắng rằng: “Chú bất tài vô học, không xứng
đậu Hương giải cớ sao dám làm những chuyện vô vị như vậy mà không cảm thấy xỉ
nhục sao?”, rồi dâng khải cho thi lại ngay ở phủ đường, cả Trác và Châu quả
nhiên đều bị trượt...
...[58b] - Cụ chính thất họ Phạm húy Tập hiệu
Huy Nhu[9] , được
phong Quận phu nhân, người xã Kim Sơn huyện Gia Lâm, con gái của Tiến sĩ thượng
thư Thuật quận công Phạm Khiêm Ích. Cụ sinh năm Bính Thân, 17 tuổi đã lấy cụ
ông được vinh hiển làm mệnh phụ nhưng tính tình chịu khó lại cần kiệm và có
lòng thương người, với những người thiếp ở dưới thì có thái độ rất yêu quý mà
không hề đố kị. Cụ mất ngày 17 tháng 7 năm Nhâm Dần, thọ 67 tuổi, mộ an táng tại
xã xứ Cồn Rốc xã Vĩnh Khê, mạch Canh, tọa Canh hướng Giáp, cụ sinh được 1 người
con trai và 3 người con gái.
- Cụ thứ thất họ Lê húy Nhật hiệu
Trinh Túc, người xã Nhân Mục Cựu huyện Thanh Trì, con gái của cụ Hương cống Thừa
Chánh sứ ti tham nghị xứ Thanh Hoa Lê Thế Toại, cụ sinh giờ Thân ngày 22 tháng
9 năm Kỉ Hợi, 15 tuổi đã được về làm thiếp của cụ ông, tuy bấy giờ sống trong cảnh
phồn hoa nhưng cụ luôn lấy đức cần kiệm để giữ mình, không cầu cạnh sự xa xỉ. Cụ
ông qua đời cụ nhất mực giữ gìn trinh tiết trước sau không thay đổi. Cụ mất
ngày mồng 4 tháng 5 năm Giáp Thân niên hiệu Minh Mệnh thứ 5 (1824), mộ cụ an
táng tại đầu xã Nhân Mục, cháu cụ muốn đem cụ về phụ táng cùng chồng nhưng chưa
làm được. Cụ sinh được 1 người con trai.
- Những người thiếp còn lại của cụ
sinh được tất cả 3 người con cả trai và gái (sau khi cụ ra làm quan có lấy cụ á
thất họ Lê là em gái cụ Tạo sĩ Lê Thế Trâm người xã Nhân Mục Cựu, là em họ cụ
Trinh Túc; Trinh Túc phu nhân từ đó mới là người phục vụ chính cho cụ ông. Lại
có người thiếp tên là Lê Thị Lan người
xã Nam Trực, sinh được 1 người con trai thứ 3 cho cụ tên là Thiện.
[58a] Người thiếp
Hoàng Thị Vĩnh người xã Hoàng Vân huyện Kim Động, sinh người con trai thứ 4 cho
cụ tên là Tín, đều được ghi chép rõ trong gia phả. Duy chỉ có Á thất họ Lê vì bỏ
bùa cụ ông nên được sủng ái suốt 10 năm nên sau khi sự việc bị phát giác thì bị
đuổi. Người thiếp Lê Thị Lan khi cụ còn sống cũng không giữ đúng đạo làm vợ nên
cũng bị đuổi ra khỏi nhà. Người thiếp Hoàng Thị Vĩnh tuổi trung niên mà việc tề
gia thiếu cẩn trọng gây tai tiếng cho gia tộc nên cũng bị tước quyền.
- Cụ sinh hạ được 4 người con trai:
con trưởng là cụ Ôn Cẩn phủ quân, con thứ là Thuần Tĩnh[10]
phủ quân, con thứ ba là Thiện, thứ 4 là Tín. Và sinh được 5 người con gái là: Thị Nghiên[11],
cụ sinh năm Nhâm Tí, là con cụ chính thất, lần thứ nhất lấy Tự thừa họ Đinh người
xã Bình Trù huyện Siêu Loại, sinh được 1 người con trai là con nuôi cụ Nguyễn
Hoàn tên là Nguyễn Phẩm, lần thứ 2 lấy Quản hậu nhất cơ Vũ Đình Chung quê xã
Tiên Cầu huyện Kim Động, không có con. Cụ
mất ngày mồng 8 tháng 10,hưởng thọ bao nhiêu tuổi không rõ. Thị Mai, sinh năm Ất Mão, là con của cụ
chính thất, lấy chồng là Khu mật sứ Mai Thế Uông quê xã Thạch Tuyền huyện Nga
Sơn, sinh ra Mai Thế Hán, Mai Thế Liêm, Mai Thế Trinh. Cụ mất ngày mồng 10
tháng 4, hưởng thọ không rõ. Nay con của
Thế Trinh là Thế Duệ học giỏi mới trúng Cử nhân, đang đợi thi Hội. Thị Kì, là con gái cụ chính thất, lấy
chồng là Cơ Mật đốc trấn Lạng Sơn Nguyễn Trọng Kiêm quê xã Linh Đường huyện
Thanh Trì, cụ mất ngày 14 tháng 5, sinh ra Trọng Y chức Quản phượng tứ đội, Trọng
Y lại sinh ra Trọng Thân, Trọng Cát hiện đang làm Thuộc sứ của tỉnh Hà Nội. Thị Chiếu, sinh năm Giáp Tuất, là con của
người thiếp tên Nguyệt, lấy Tiến sĩ đời Vĩnh Trị Nguyễn Đình Giản quê Hoằng
Hóa, sau Đình Giản vì nhà Lê mất nên tuẫn nạn, phu nhân thủ tiết thờ chồng, cụ
mất ngày mồng 4 tháng 5 năm Tân Tị, sinh ra Nguyễn Đình Quân Tri huyện Phụ Dực,
con gái trưởng lấy chồng là Đào Xuân Tiến người xã Hà Mi, con gái thứ lấy cư sĩ
Lê Bật Triệu người xã Đại Trung huyện Hoằng Hóa, ẩn cư không ra làm quan; con
gái thứ 3 lấy Vũ Đình [ ] người xã Tiên Cầu huyện Kim Động. Thị Trình, sinh năm Kỉ Hợi, là anh em
cùng mẹ với cụ Nguyễn Tín, lấy chồng là Vũ Huy Cầu người làng Mộ Trạch huyện Đường
An, không rõ là có con hay không?
Kính xét: Cụ tổ của ta Viện quận tướng công
khoa danh quan nghiệp lẫy lừng, gia tiên đời trước có hai cụ đỗ Hội nguyên,
cùng giữ chức Tư giảng, Tham tụng, quả thật là gia đình quan chức danh giá hi hữu
vậy. Tuy cuối đời gặp vận xấu nên công danh cuối cùng cũng bị chiết giảm ít nhiều
thật là tiếc lắm thay![58b] Người đời
sau bàn luận về việc này, có người nói rằng: "Cụ tổ của ta 10 năm làm quan
không lúc nào không sáng suốt, những sự việc rơi vào các năm Canh Tí, Nhâm Dần
đều là những việc do không thể cứu giúp mà thôi, có thể ví với ông lão ở cung
Trường Lạc vậy! Cụ tổ của ta là bậc đại thần của đất nước, Trịnh Tĩnh Vương làm
vua 16 năm, trong tu văn trị, ngoại kháng võ công kể ra cũng là một đời bình trị,
cụ tổ ta là chỗ để vua gửi gắm lòng tin, quân thần bày mưu tính kế, ắt là cụ hiểu thấu lòng vua, chỉ cần đọc sách
Thập châm cụ dâng cũng đủ để thấy chẳng
khác nào đời vua Nghiêu, vua Thuấn, gặp được ông vua sáng suốt anh minh như vậy,
tài năng của cụ được trọng dụng hết mức cho nên cụ hiển danh cũng là điều tất yếu....
[60a] Đời thứ 8:
Cụ Ôn Cẩn phủ quân, húy Trạch, trúng
thức khoa Kỉ Mão đời Lê, triều liệt đại phu, tiến triều ứng vụ Phụng Thiên phủ
doãn, phụng sai Tham đồng đề lĩnh tứ thành quân vụ, toản tu quốc sử tước Châu
Lĩnh hầu tặng Hình bộ tả thị lang. Cụ là con trai trưởng của cụ Viện quận tướng
công, do bà chính thất Quận phu nhân họ Phạm sinh ra. Cụ sinh năm Canh Thân
niên hiệu Cảnh Hưng thứ 1 (1740), cụ bà sinh đôi nhưng chỉ nuôi được 1. Năm Kỉ
Mão niên hiệu Cảnh Hưng 20 (1769) cụ thi Hương đậu Hương giải, đỗ thứ 2, năm
Đinh Hợi khi cụ 28 tuổi, khi Viện quận tướng công vừa vào chính phủ, phủ quân
thừa hưởng phúc ấm của cha nên được nhận Triều liệt đại phu, được phép vào
trong triều đảm đương công việc. Đời Lê có qui chế rằng người phải đỗ Tiến sĩ
thì mới được dự triều chính, những người đỗ Hương cống mà có khả năng văn học
thì cũng được tham dự, vì cụ được vua cho phép vào triều đảm đương công việc
cho nên mới được trọng dụng giống như các Tiến sĩ. Cụ vừa dự triều đã đảm đương
chức Hàn lâm viện thị thư, rồi thăng đến Thự Giám sát ngự sử đạo Sơn Nam, lại
thăng Phụng Thiên phủ doãn, tham đồng đề lĩnh tứ thành quân vụ. Năm Kỉ Hợi niên
hiệu Cảnh Hưng thứ 40 (1779) cụ được ban tước Châu Lĩnh hầu, cũng năm đó vào
ngày mồng 9 tháng 7 cụ qua đời, thọ 40 tuổi. Tặng Hình bộ [60b] thị lang thụy Ôn Cẩn, táng tại xứ Cồn Đá bản xã, phía trước phần
mộ cụ Đạo Hành phủ quân. Cục địa đó là dư khí của mộ tổ đẩy ra cho đến đó, núi
Cấm có thủ huyệt, núi Hổ là chứng mạch rất rõ ràng khăng khít, hướng tọa cùng với
thế bên ngoài cũng giống như mộ tổ, còn thế bên trong thì rất hữu tình.
Cụ chính thất
họ Đào (tên húy khuyết), tặng Chánh phu nhân hiệu Nhu Thuần, là con gái do người
thiếp của Tiến sĩ Đào Xuân Lan ở Hà Mi sinh ra, cụ mất ngày mồng 6 tháng 7 (không
rõ năm), an táng ở xứ Cồn Trắng, sinh được 1 người con trai. Cụ kế thất Lê Thị Cúc hiệu Thiện Tín là
con gái Tiến sĩ Lê Hoàng Vĩ ở Đa Sĩ, cụ mất ngày mồng 10 tháng 4 (không rõ
năm), an táng tại xứ Mả Đậu xã Đa Sĩ, sinh 1 con trai và 1 con gái. Thiếp là Thị Thanh người xã Thanh Thần huyện Đan Phượng, sinh được
2 người con trai. Thị Tòng người xã
Đa Sĩ sinh được 1 con trai.
Phủ quân sinh được tất cả 5 người con
trai, con trưởng là Cẩn Thận phủ quân, thứ 2 là Nhân, thứ 3 là Trù, thứ 4 là Tố,
tứ 5 là Cát. Và 2 người con gái là Thị Hợp
(sinh năm Nhâm Thìn, là do cụ kế thất họ Lê sinh ra. Lấy chồng là Lí Trần Tân con trai Tiến sĩ Lí Trần Quán ở
Vân Canh. Trần Tân sinh Trần Tục, Trần Thằng. Tân đỗ Hương cống thời Lê, sau mắc
bệnh tim nên mẹ phải vái tứ phương nên chỗ ở vô định. Thị Hòa (sinh năm Mậu Tuất, là do người thiếp là Thị Định sinh ra,
lấy em của mẹ ta là Phan Huy Thực, làm quan đến Lễ bộ thượng thư, sinh Phan Huy
Vịnh đậu Cử nhân, đang làm quan; Phan Huy Lãm hiện sống ở núi Sài Sơn).
[Từ trang 61 đến trang 64 là phần viết về
hành trạng cụ Nguyễn Hề, các chi tiết đều giống với gia phả của gia đình nên
không dịch]. Nhưng cần bổ sung thêm một số chi tiết sau:
[65a] Cụ chính thất họ Phan húy Bích hiệu Trinh Mẫn, là con
gái trưởng của Tiến sĩ Phan Dụ Am người xã Thu Hoạch huyện Thiên Lộc tỉnh Nghệ
An. Cụ sinh giờ Dần ngày mồng 7 tháng 9 năm Canh Dần niên hiệu Cảnh Hưng thứ
31, cùng tuổi với cụ Nguyễn Hề, 13 tuổi cụ đã lấy cụ ông, cụ là người sống
nghiêm túc, giỏi quản lí gia đình, thấu tình đạt lí, an phận, không tham danh lợi
phù vân. Cụ ông ôm mộng báo đáp ơn chúa dẫn đến tán tài phá sản dẫn đến trắng
tay mà cụ vẫn chu toàn đối đãi, nhiều lần sinh nở gian nan mà chỉ giữ nuôi được
3 người con, ở tuổi trung niên cụ bị chứng băng huyết nên vào ngày 12 tháng 6 năm
Gia Long Canh Ngọ (1810) cụ qua đời ở nơi sinh sống là Hà Nội, thọ 41 tuổi, ban
đầu táng ở đầu xã Quang Liệt, sau cải táng cùng hợp táng với cụ ông ở xứ Đầm
Tròn. Năm Đinh Dậu niên hiệu Minh Mệnh lại dời về chỗ cũ. Cụ sinh được 2 người
con trai là Phó và Bảo, 1 người con gái là Thị
Phương (sinh năm Canh Tuất, lấy con trai thứ 8 của Tiến sĩ Ngô Duy Viên là
Ngô Duy Khánh, chưa có con. Duy Khánh là người ít học nhưng giỏi tính toán cho
nên trở thành người rất giàu có).
[67a] PHỤ LỤC
Cụ chính thất Phan Tự phu nhân là vợ
cụ Hoằng Tín đại phu Thuần Tĩnh phủ quân, mộ nay an táng tại đầu xứ Ngọc Đàm xã
Thanh Liệt (trước là xã Quang Liệt) tổng Thanh Liệt huyện Thanh Trì phủ Thường
Tín, phía tây cận Yên Xá, phía đông cũng gần Yên Xá, phía nam gần cầu Hữu Thanh
Oai, phía bắc gần đầm sâu Kim Lũ, mộ tọa nam hướng bắc...
Ngày mồng 1 tháng 12 năm Thành Thái
thứ 4 (1892) cháu Tằng Tôn là Lợi Thiệp và Lợi Chiêm lát gạch cho mộ cụ, đề lên
bia 8 chữ: Thanh Tĩnh Hữu Phương Nguyễn Thị Tổ Mộ, lúc bấy giờ có phiền đến ông
Cả Hựu và học trò là Ông Lí Bè cùng con trai là anh trưởng Liệt trông nom, quét
dọn.
[68a] Nghe nói: mộ cụ lúc đầu là chôn nhờ ở cạnh phía đông mộ
của người khác, sau đó Ông Cả Hữu mời thầy di đi chôn ở chỗ khác, lúc mở huyệt
ra thì người trong nhà Ông Lí Bè chính mắt chứng kiến thấy ở chỗ đất đó có khí
thơm rất nồng đượm thì lập tức đắp đất xây lên, hiện nay mộ tổ cùng với mộ của
người khác hợp thành 1 mộ, hỏi vợ chồng Ông Lí Bè thì đều nói rằng mộ tổ đích
thị là ở phía đông, mộ của người kia ở phía tây, tôn phần và hướng tọa của ngôi
mộ thì ở phía trước mặt Ông Lí Bè, còn năm trước thì Ông Cả Cát (là con trai
Ông Cả Hựu) chỉ lại là ở phía trái, miếng đất hình chiếc bảng nhưng nay người
am hiểu về mạch đất thì lại cho là ở bên phải mới đúng, căn hỏa, hình giống như
chiếc bút bèn ghi vào để xem xét.
Ông Lí Bè nói rằng: Nhà tôi có bà cô
tổ la con gái của cụ Thuần Tĩnh phủ quân, không sinh được con mộ cũng an táng ở
tại xã này, ở phía đông chùa, phía tây con đường nhỏ, hình giống như một miếng
đất lớn, gần với đoạn trên của cống nước (do là dân ở thôn Thượng xã Quang Liệt
đi qua con đường nhỏ đến chùa thì phải đi qua phần mộ đó đến cống nước rồi mới
đến chùa). Ông Nguyễn Lợi Thiệp cùng người thân cũng đã đến đó để xác nhận và vẽ
vào sơ đồ để lưu chiểu.
Nay khảo xét thì Cô tổ là con gái thứ
của cụ Thuần Tĩnh phủ quân húy là Lưu,gả lấy chồng là con trai của ông Mai Doãn
người xã Thạch Tuyền huyện Thanh Trì, phận mỏng nên mất 17 tháng 11 do lâm bệnh
nặng. Chuyện đó muốn biết có thể xem trong thơ văn do cụ Thuần Tĩnh phủ quân viết
khóc về con gái. Vì bà cô tổ mất sớm nên biệt phả của bản chi không ghi chép
nên nay tôi ghi lại để biết.
[69a] QUYỂN 5: BỊ KHẢO VỀ BIỆT PHÁI
I.Chi cụ Đạo chính phủ quân
1. Cụ Trực Lượng phủ quân (đã ghi
chép đầy đủ trong chính phả)
2. Cụ Văn Trinh: là con trai thứ 2 của
cụ Đạo Chính phủ quân, mang họ Hà, giữ chức Hiệu sinh của bản phủ, cụ mất ngày
mồng 2 tháng 12, không rõ năm nào? Hưởng thọ 85 tuổi, thụy Đạo Thuần, an táng tại
xứ Cồn Giếng thuộc địa phận xã Vĩnh Khê, gia đình cụ rất giàu có, người đời gọi
là Bác Kho. Vợ cụ là bà họ Lê, khuyết danh hiệu Từ [???], không có con cho nên
nuôi con trai thứ 3 của cụ Trực Lượng phủ quân là Minh Phủ và Minh Lễ là con
trai của cụ Văn Tường làm con thừa tự.
3. Cụ Văn Tường[12]:
là con trai thứ 3 của cụ Đạo Chính phủ quân, mang họ Hà, giữ chức Hiệu sinh bản
phủ, cụ mất ngày 14 tháng 11, không rõ năm, thụy là Đạo Tiên, mộ an táng tại
thôn Cổ Duệ xã Thiên Linh huyện Ngọc Sơn. Vợ cụ là Thiều Thị Cửa hiệu Duyên Hi,
sinh được 1 người con trai là Minh Lễ.
* [69b] Chi cụ Văn Tường:
-
Cụ Minh Lễ: lại có tên là Khố, là con trai của cụ Văn Tường, làm con nuôi của
người bác là Văn Trinh, thừa hưởng gia sản của 2 người cha nên gia đình hết sức
giàu có, đã từng cung tiến 2 vạn 2 nghìn tiền thóc, bổ nhiệm chức Cẩn sự tá
lang, Huyện thừa huyện Thạch Hà, cụ mất ngày 22 tháng 3, không rõ năm nào, thọ
85 tuổi, thụy là Đạo Cao, mộ an táng tại trại Đất Ngói xã Cam Lộ tổng Đồng Xá bản
huyện. Vợ cụ tên Nguyễn Thị Đài hiệu Trinh Thục, mất ngày 24 tháng 12, táng tại
xã Lộc Trạch tổng Đồng Niệm, sinh 1 người con trai tên là Kiệt, lấy tên là Hà
Nguyễn Kiệt, con gái là Thị Tự, con gái thứ không rõ tên, con gái thứ 3 là Thị
Xuyền lấy Huyện Nga.
* Đời thứ 3:-Chi cụ Minh Lễ:
- Cụ Kiệt: còn
có tên khác là Sùng, là con trai cụ Minh Lễ, sinh năm Nhâm Ngọ, vì năm đó đất
đai của bản xã bị nước phá hoại, cho rằng Ngọ Mùi bất lợi cho việc sống ở quê
nên li hương đến ở thôn Cổ Ngõa xã Cam Lộ. Cụ mất ngày 24 tháng 6, năm nào
không rõ, hưởng thọ 76 tuổi, thụy Đạo Mẫn. Vợ cụ người thôn Yên Nội xã Cổ Đôi,
khuyết tính danh, sinh được 5 người con trai là: Nghĩa, Giản, Liêu, Lạng, Đại. Con cái của cụ Kiệt đều lấy họ Hà Nguyễn. Và 9 người
con gái: Thị Thoa lấy Lê Tuấn Bá người thôn Tiên; Thị Nghiêu lấy Lê Đăng Xiêm
người thôn An Nội xã Cổ Đôi; Thị Dần lấy Nguyễn Đàm người trang Thái Bình xã
Tuy An; Thị Bản lấy Lê Hữu Triết người bản xã; Thị Hai lấy Lê Tuấn Bá người bản
xã; Thị Miện lấy Đỗ Quang Chiếu người thôn Hồi Cù xã Thái Bình.
* Đời thứ 4:
[70a] Chi cụ Kiệt:
1. Cụ Nghĩa: là con trưởng cụ Kiệt,
năm sinh năm mất không rõ, sinh được 1 người con trai là Thạc.
2. Cụ Giản: là
con trai thứ 2 cụ Kiệt, năm sinh năm mất không rõ, làm quan đến chức Tự thừa.
3. Cụ Liêu: là con trai thứ 3 cụ Kiệt,
năm sinh năm mất không rõ, giữ chức Tổng trưởng.
4. Cụ Lạng: là con trai thứ 4 cụ Kiệt,
sinh năm Bính Tí, 16 tuổi trúng Sảo Thông khoa Tân Mão; năm Canh Tí đậu thứ 1
kì thi Năng văn; năm Quí Mão trúng Hương công; năm Kỉ Dậu trúng Tuấn sinh thứ
2. Thời Tây làm quan đến Binh bộ Tả thị lang tước Lưỡng thành hầu. Cụ mất ngày 29
tháng 2, năm mất không rõ thụy Đạo Đức hiệu Tốn Trai tiên sinh. Vợ cụ là con cụ
Lê Sĩ Hoằng người xã Cổ Đôi, ở quê vợ, sinh được 2 người con trai là Đán và
Phi, và 5 người con gái là Thị Điểm, Thị
Viên, Thị Quyên, Thị Học, Thị Tuấn lấy ai đều không rõ.
- Cụ Đại: là con trai thứ 5 cụ Kiệt,
năm sinh, năm mất đều khuyết, sinh được 1 người con trai tên là Hồng.
*Đời
thứ 5: - chi cụ Nghĩa: có cụ Thạc là con trai cụ Nghĩa, năm sinh, năm mất đều
khuyết.
[70b]
- chi cụ Liêu: có cụ Tụ là con trai
cụ Liêu, năm sinh, năm mất đều khuyết, sống ở Phù Chẩn.
- chi cụ Lạng: có cụ Đán, là con trai cả năm sinh năm mất đều khuyết.
Cụ Phi là con trai thứ 2 , năm sinh, năm mất đều
khuyết.
-
chi cụ Đại: có cụ Hồng là con trai trưởng, năm sinh năm chết đều không rõ.
[71a] II. Chi cụ Trực Lượng
phủ quân
*Đời thứ 1:
1. Điềm Chất phủ quân: húy công Vĩ và Minh, là con trai trưởng của cụ Trực Lượng phủ
quân, cụ sinh năm Mậu Tuất[13]
niên hiệu Vĩnh Thọ 1 (1658), cụ mất ngày 18 tháng 3 năm Bính Thìn niên hiệu
Vĩnh Hựu thứ 2 (1736), hưởng thọ 79 tuổi, cụ lưu cư đến Đức Trạch mang họ Phan,
thừa tự của cha là Trực Lượng phủ quân trở thành trưởng chi họ Phan ở Đức Trạch.
Cụ vốn bị khuyết tên thụy nhưng khi em trai cụ là Nông quận tướng công nắm giữ
quyền hành vì an trai là người an bần lạc đạo, không can cầu vào bất cứ việc gì
cho nên người trong làng gọi là Bác Xã, vì aicũng biết rất rõ cụ là người điềm
tĩnh, chất phác nên truy cho cụ tên hiệu là Điềm Chất, vả lại cụ là dòng chính
Đức Trạch cho nên viết tên thụy vào gia phả mà không viết tên, cụ sinh được 1
người con trai là Công Tích.
2. Công Kính: vốn
tên là Kính nhưng vì kiêng húy nên thêm bộ Nhân vào bên cạnh chữ Kính, cụ là
con trai thứ 2 cụ Trực Lượng phủ quân, sinh năm Ất Sửu, mất ngày 24 tháng 11,
hưởng thọ 77 tuổi, lưu cư đến Đức Trạch lấy họ Phan, trở thành thứ chi của họ
Phan, sinh được 2 con trai, con trưởng khuyết danh, con thứ 2 tên là Tại.
3. Minh Phụ:
là con trai thứ 3 cụ Trực Lượng phủ quân, sinh nămTân Hợi, làm con nuôi của người
chú là cụ Văn Trinh, trở về sống ở Hương Khê nên vẫn theo tổ là họ Hà, làm quan
đến chức Đồng tri phủ phủ Kiến Xương, không rõ năm mất, sinh 2 người con trai:
con trưởng là Thân, con thứ là Lệ đều mang họ Hà Nguyễn.
4. Nông quận tướng công: đã ghi chép đầy đủ
trong chính phả
[71b] 5. Danh Chấn: là con trai thứ 5 của cụ Trực Lượng
phủ quân, cụ sinh năm Tân Dậu niên hiệu Chính Hòa thứ 2 (1681), năm mất bị khuyết,
lưu cư đến Đức Trạch mang họ Phan, trở thành chi thứ 3 của họ Phan ở Đức trạch,
sinh 1 người con trai tên là Vấn.
**Đời thứ 2: 1- chi cụ Điềm Chất
phủ quân
- Công Tích:
là con trai cụ Điềm Chất phủ quân, năm sinh, năm mất đều khuyết, vì có chú là
Nông quận tướng công nắm giữ quyền hành nên được suy ân nhậm chức Huyện thừa
huyện Vĩnh Khang, sinh 1 người con trai là Trọng Tú.
2. Chi cụ Công Kính: - con trai trưởng của cụ khuyết danh, không rõ năm sinh năm mất, sinh
được 1 người con trai cũng khuyết danh.
- Con trai thứ 2 của cụ là Tại: vốn
tên là Phan Công Cẩn, sau làm con nuôi cụ Nông quận tướng công, quay về sinh sống
ở Hương Khê mang họ Nguyễn nên đổi tên là Tại, giữ chức Phó sở, năm sinh năm mất
đều không rõ, sinh được 5 người con trai: con trai trưởng khuyết danh, các con
trai tiếp theo tên là Tá, Đình, Trị, Trọng và 6 người con gái là: Thị Đề lấy Đề lại họ Nguyễn người xã
Tào Lâm, sinh Nguyễn Giảng, Nguyễn Đệ; Thị Đồng lấy chồng không rõ họ tên người
xã Hòa An, sinh Đỗ Tháp; Thị Huyền lấy
chồng là sinh đồ khuyết danh người xã Tào Lâm, sinh Văn Huyền; Thị Hợi lấy chồng
là người xã Tào Lâm khuyết danh, sinh Đỗ Hợi và Văn Tốc; Thị Ân, lấy chồng người xã Tào Lâm, khuyết danh, sinh con là Văn
Trung, Văn Hiếu; Thị Tình, lấy chồng
là Sinh đồ người bản xã, khuyết danh.
3. Chi cụ Minh Phụ:
[72a]- cụ Thân: là con
trai trưởng của cụ Minh Phụ, mang họ Hà Nguyễn, năm sinh năm mất đều khuyết, do
đậu Nho sinh trúng thức nên được làm Huyện thừa huyện Vĩnh Khang, sinh được 3
người con trai tên là Bá, Lân, Thứ, sau đời cụ Thân và cụ Lệ con cháu đều mang
họ Hà Nguyễn; và 2 người con gái là Thị Tú, Thị Sở đều lấy chồng người xã Tam
Tuyền.
- cụ Lệ: là
con trai trưởng cụ Minh Phụ, năm sinh, năm mất đều tàn khuyết, làm quan đến chức Thiếu khanh, Huyện thừa
huyện Phụng Hóa, sinh 1 người con trai tên là Cầu và 2 người con gái đều khuyết
danh, 1 người lấy chồng người xã Vạn Lộc, 1 người lấy chồng thôn Nhân Mĩ đều
không rõ họ tên.
4. Chi cụ Danh Chấn: - cụ Danh Vấn là con trai cụ Danh Chấn, năm sinh năm mất đều khuyết,
sinh 1 người con trai là Trọng Liễn.
***Đời thứ 3:
1. Chi cụ Công Tích: - cụ Trọng Tú là con trai cụ Công Tích, năm sinh năm mất đều khuyết,
sinh được 2 người con trai, con trưởng là Trọng Hải, con thứ khuyết danh.
2. Chi cụ khuyết danh: - sinh ra cụ ông khuyết danh làm đích tôn của cụ Công Kính, năm sinh
năm mất đều không rõ, sinh được 1 người con trai là Nghĩa, lấy họ là Phan Nguyễn.
[72b] 3. Chi cụ Tại: - cụ khuyết danh là con trai trưởng
cụ Tại, làm quan đến chức Tri huyện, người đời gọi là cụ Bôn, năm sinh năm mất
đều khuyết, cụ không có con.
-
cụ Tá: là con trai thứ 2 của cụ Tại, đỗ Hương cống khoa Quí Mão, bổ chức
Tri huyện huyện Thượng Phúc, năm sinh năm mất đều tàn khuyết, sinh được 2 người
con gái là: Thị Hanh lấy chồng người xã Ngọc Bôi huyện Đông Sơn tên là Cống Vịnh,
giữ chức Tri huyện huyện Nông Cống, sinh ra Văn Phổ và Văn Cảnh; Thị Thái lấy
chồng người xã Cầu Quan, khuyết danh.
- cụ Đình: là con trai thứ 3 cụ Tại, làm quan đến chức Tri huyện, người
đời gọi là Huyện Siêu, năm sinh, năm mất của cụ đều khuyết, cụ chỉ sinh được 2
người con gái là: Thị Phòng lấy chồng người bản xã không rõ tên, sinh ra Văn
Phòng, Văn Ý, Văn Lộng; và Thị Hoan lấy chồng người bản xã cũng khuyết danh.
- cụ Trị: là con trai thứ 4 cụ Tại, thường gọi là Thiêm Trị, năm sinh
năm mất đều tàn khuyết, cụ không có con.
- cụ Trọng: là con trai thứ 5 cụ Tại, thường gọi là Thiêm Trọng, năm
sinh năm mất đều tàn khuyết, cụ không có con.
4. Chi cụ Thân:
- cụ Bá: là con trai trưởng cụ Thân, làm quan đến chức Tri huyện, thường gọi là
Huyện Sen, năm sinh năm mất đều không rõ, cụ sinh được 1 người con trai tên
Bình và 3 người con gái là: Thị Liên lấy chồng người bản xã họ Lê, sinh Lê Văn
Bích, Lê Văn Vĩ; và Thị Vòi không rõ đi đâu; Thị Chẩm lấy chồng người xã Hà
Liên, sinh Vũ Trọng Phách.
[73a] - cụ Lân: là con
trai thứ 2 cụ Thân, năm sinh năm mất đều không rõ, cụ không có con.
- cụ Thứ: là con trai thứ 3 cụ Thân, năm sinh năm mất đều không rõ, cụ
không có con.
5. Chi cụ Lệ: -
cụ Cầu là con trai trưởng cụ Lệ, làm quan đến chức Tự thừa, năm sinh năm mất đều
tàn khuyết, cụ sinh được 3 người con gái là: Thị Chuẩn lấy chồng người bản xã
tên là Dư, 2 người con gái còn lại đều không rõ.
6. Chi cụ Danh Vấn: - cụ Trọng Liễn là con trai cụ Danh Vấn, năm sinh năm mất đều khuyết,
sinh 1 con trai tên là Đĩnh.
****Đời thứ 4:
1. Chi cụ Trọng Tú: - cụ Hải là con trai trưởng cụ Trọng Tú, giữ chức Phó sở, thụy là Phúc
Cẩn, năm sinh năm mất đều khuyết, sinh được 1 người con trai là Trọng Thảo.
- cụ khuyết danh: là con trai thứ 2 cụ
Trọng Tú, năm sinh năm mất đều tàn khuyết, sinh 1 con trai là Trọng Nhiễu.
[73b] 2. Chi cụ khuyết danh: - cụ Nghĩa là con trai cụ khuyết
danh, là cháu tằng tôn của cụ Công Kính, thi đậu Sinh đồ, năm sinh năm mất đều
tàn khuyết, cụ không có con.
3. Chi cụ Bá:
- cụ Bình là con trai cụ Bá, giữ chức Tri sự, sinh 3 người con trai là Sĩ, Mãn,
Hạnh và 1 người con gái là Thị Nghiêm lấy ai không rõ. Tại quê trước đây con cụ
Minh Lễ làm trưởng chi sau đó con các cụ Nghĩa, Liêu, Lạng, Đại đều không có
con trai nên cụ Bình được thay mặt làm trưởng tộc họ Hà.
4. Chi cụ Trọng Liễn: - sinh ra cụ Trọng Đĩnh, không có tiểu sử.
*****Đời thứ 5:
1. Chi cụ Trọng Hải: - cụ Trọng Thảo là con trai cụ Trọng Hải, sung làm ở ti Lương Y, sinh 1
người con trai là Trọng Điều.
2. Chi cụ Trọng [khuyết danh]: - Cụ Trọng
Nhiễu là con trai cụ Trọng khuyết danh, năm sinh năm mất đều tàn khuyết. 3 chi
họ Phan ở Đức Trạch đều sinh sống ở xã đó, duy chỉ có Trọng Nhiễu di cư đến xã
Tiên Quán huyện Kim Động phủ Khoái Châu, sinh 3 người con trai là Trọng Tân, Trọng
Hùng, Trọng Hổ và 1 người con gái là Thị Trảo, lấy chồng người xã Đức Trạch.
3. Chi cụ Bình:
- cụ Sĩ là con trai trưởng cụ Bình giữ chức Khán thủ của bản xã.
- cụ Mãn: là con trai thứ 2 cụ Bình,
sung chức Giản binh của bản xã.
- cụ Hạnh: là con trai thứ 3 cụ Bình.
******Đời thứ 6:
1. Chi cụ Trọng Thảo: - cụ Trọng Điều là con trai cụ Trọng Thảo.
[74b] 2. Chi cụ Trọng Nhiễu: - cụ Trọng Tân là con trai trưởng cụ Nhiễu, anh em cùng sinh sống ở xã
Tiên Quán.
- cụ Hùng: là con trai thứ 2 cụ Nhiễu
- cụ Hổ: là con trai thứ 3 cụ Nhiễu.
[75a] Chi của cụ Nông quận tướng
công
*Đời thứ 1:
1. Cụ Nghi: cụ
còn có tên khác là Du, là con trai trưởng cụ Nông quận tướng công do cụ kế thất
là Đoan Tĩnh phu nhân sinh ra. Cụ sinh năm Tân Mão đời Lê Vĩnh Thịnh, đậu Nho
sinh trúng thức, thi Hội nhiều lần đậu Tam trường. Lúc đầu cụ dạy học, trải các
chức Triều liệt đại phu, Tả trung doãn Lạng Sơn đẳng xứ tán trị thừa chính sứ
ti tham chính. Cụ mất ngày 29 tháng giêng năm Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống thứ
1 (1787), hưởng thọ 77 tuổi, tên thụy khuyết. Vợ cụ là Nguyễn Thị Bích, là con
gái cụ Thượng thư Nguyễn Huy Nhuận người xã Phú Thị huyện Gia Lâm. Cụ sinh được
1 người con trai và 3 người con gái. Con gái cả là Thị Biện lấy chồng là Tân,
Đô đốc Sơn Tây, không có con. Con gái thứ 2 là Thị Thái, lấy chưởng cơ Sơn Tây
là Trung, sinh ra Văn Khánh, nay còn. Con gái thứ 3 của cụ khuyết danh). Đời Lê
cụ bà vào hầu ở phủ chúa Trịnh. Theo như quy định thì cụ Nghi là anh trai trưởng
của Viện quận tướng công thì cụ cũng được hưởng phận chị dâu trưởng rất nên đưa
vào chính phả nhưng vì căn phúc quá mỏng không chịu chăm lo việc thờ cúng tổ
tiên nên cũng chỉ được liệt vào hàng bị khảo mà thôi.
2. Cụ Viện quận tướng công: Hành
trạng xem ở phần thế phả chính biên của gia đình và phần dịch bổ sung ở phần Thế
phả chính biên của quyển gia phả này.
3. Cụ Đàm: Là
con trai thứ 3 của cụ Nông quận tướng công, do cụ thứ thất họ Nguyễn sinh ra, cụ
sinh năm Mậu Tuất đời Lê Vĩnh Thịnh thứ 14 (1718), năm Qúi Hợi niên hiệu Cảnh
Hưng thứ 4 thi Hương đậu Giải nguyên, thi Hội nhiều lần trúng Tam trường, trải
các chức Hoằng tín đại phu, vào triều đảm đương công việc, phụng sai Đốc đồng xứ
Thanh Hoa, Đông các học sĩ. Cụ mất ngày 28 tháng 11 năm Canh Tí niên hiệu Cảnh
Hưng thứ 41 (1740), hưởng thọ 63 tuổi, tên thụy khuyết. Vợ cụ họ Nguyễn, khuyết
danh, là con gái cụ Tiến sĩ Quận công Nguyễn Tuyền (có âm đọc là Toàn) người xã
Văn Giáp huyện Thượng Phúc), cụ sinh được 3 người con trai tên là: Mậu, Vĩnh,
Đài và 2 người con gái: con gái trưởng là Thị Mi, lại có tên là Thị Bành, lấy
Tiến sĩ Lưu Đề (Lưu Định) người xã Nguyệt Áng huyện Thanh Trì, sinh ra Lưu Hân,
Lưu Huy, Lưu Tự. Hân và Huy cùng đỗ Cử nhân năm Minh Mệnh thứ 20, nhưng sau khi
ra làm quan thì đều bị mắc tội. [75b]Con
gái thứ là Thị Lam, còn có tên là Sính, lấy chồng là Trần Trọng Dung, Cống sĩ
xã Văn Giáp, trải làm quan Tri huyện Phù Khang và Nam Chân. Khi cụ Bảo sống ở
Kinh thì thấy một bà già hơn 70 tuổi xưng là con gái cụ Đàm, vì loạn Tây Sơn
nên bị giặc hiếp liền lấy chồng người Quảng Bình là vị Đô đốc không rõ tên,
sinh được 1 ngời con gái nay còn sống ở Quảng Bình. Hỏi người trong làng và
trong họ những câu chuyện cũ xem có nhớ về sự việc này hay không để khảo cứu để
biên soạn thì được biết cụ Đàm chỉ sinh được 2 người con gái, người đàn bà trên
còn để đó tồn nghi.
4. Cụ Hợi: là
con trai thứ 4 cụ Nông quận tướng công, em cùng mẹ với cụ Đàm, cụ sinh năm Ất Tị
đời vua Lê Bảo Thái thứ 6 (1725), năm Tân Dậu Cảnh Hưng thứ 2 thi đậu Hương cống,
trải các chức Hoằng tín đại phu lang trung các xứ Tuyên Quang, Lạng Sơn, tư trị
thừa chánh sứ ti, thừa chánh sứ tước Gia Dĩnh hầu, cụ mất ngày mồng 2 tháng 2,
không rõ năm nào, thụy khuyết. Vợ cụ họ Lê, khuyết tên, người xã Yên Xá huyện
Thụy Nguyên, cụ mất ngày mồng 1 tháng 10, sinh được 1 người con trai là Trữ.
5. Cụ Hân: là
con trai thứ 5 cụ Nông quận tướng công, do bà thiếp tên Nhạn sinh ra, cụ sinh
năm Ất Tị niên hiệu Bảo Thái đời Lê thứ 6, năm Cảnh Hưng thứ 41 bọn giặc núi
bao vây bản xã nên cụ bị bắt đi, khi đó cụ 26 tuổi, sau được tặng Hoằng tín đại
phu, Tham chính. Chưa có con.
6.Cụ Nhậm: lại
có tên là Viên, là con thứ 6 của cụ Nông quận tướng công, em cùng mẹ với cụ
Đàm, cụ sinh năm Đinh Mùi niên hiệu Bảo Thái thứ 8, năm Cảnh Hưng Ất Dậu thứ 26
cụ thi đậu Hương cống, thi hội nhiều lần đỗ Tam trường, trải các chức Hoằng tín
đại phu, Tự thừa, Tri phủ Hưng Hóa, Tuyên Quang, Tư trị thừa chính sứ ti, Thừa
chính sứ kiêm Nghệ An xứ Tán trị thừa chính sứ ti Tham nghị tước Lãng Khê bá, đổi
tước Vị Khê hầu. Cụ mất ngày 21 tháng 10 năm Kỉ Tị niên hiệu Gia Long thứ 8, hưởng
thọ 83 tuổi, thụy Đôn Hậu hiệu Hiền Đức tiên sinh. Vợ cụ họ Bùi, khuyết danh,
là con gái cụ Tiến sĩ Bùi Đình Huyến người xã Tiên Mộc, sinh được 7 người con
trai tên là: Trinh, Thục, Bật, Tư, Đăng, Hựu, Soạn. Và 5 người con gái, con gái
trưởng là Thị Lành, lấy chồng là Cựu Hương cống Lê Thế Trị, đốc học Quảng Ngãi,
quê thôn Dự Quần xã Tuần La huyện Ngọc Sơn, sinh Lê Duy Thanh, Lê Văn Thục, Lê
Thời Bảo. Duy Thanh, và Thời Bảo cùng đều trúng Cử nhân, Văn Thục đỗ Tú tài.
Con gái thứ là Thị Bành lấy nho sinh xã Tiên Mộc; con gái thứ là Thị Diễn lấy vị
Cấp sự xã Tiên Mộc; con gái thứ là Thị Mĩ lấy vị Đề lại xã Tào Lâm; và con gái
út là Thị Thiệu lấy người bản xã không rõ tên.
[76a] 7. Cụ Trác: Là con trai thứ 7 cụ Nông quận tướng
công, em cùng mẹ với cụ Đàm, sinh năm Tân Hợi đời Lê Vĩnh Khánh (1731), năm
Giáp Ngọ đời Cảnh Hưng thi Hương vừa được dự trúng nhưng đến khi phúc khảo lại
bị loại, ấm thụ Hoằng tín đại phu Thái bộc tự khanh tước Hoa Nhạc bá, cụ mất
ngày 23 tháng 10 năm Cảnh Hưng thứ 41, thọ 56 tuổi, sinh được 4 người con trai
là: Nga, Chí, Thận, Huyên và 4 người con gái, con gái trưởng không rõ tên là
gì?, lấy vị Hiệu thư người xã Phú Mĩ huyện Lôi Dương; con gái thứ 2 cũng không
rõ tên gì? Lấy chồng là Vũ Trọng Đồng người xã Lễ Động; con gái thứ 4 là Thị
Khâm lấy Tri huyện người xã An Xá huyện Thụy Nguyên; con gái út là Thị Bản lấy
chồng người bản xã không rõ tên là gì? Sinh ra Văn Ban và Văn Chiếu.
8. Cụ Nguyễn Tiệp: là con trai thứ 8 cụ Nông quận tướng công, em cùng mẹ với cụ Đạm, sinh
năm Long Đức Nhâm Tí đời Lê, thi Hương đậu Tam trường, ấm thụ Hoằng tín đại
phu, Tả trung doãn. Cụ mất ngày mồng 1 tháng 3 năm Nhâm Ngọ niên hiệu Cảnh
Hưng, hưởng thọ 31 tuổi, thụy là Thận Nhã, sinh được 1 người con trai tên là
Vĩ, và 2 người con gái, con gái trưởng lấy Tiến sĩ Đỗ Huy Cư; con gái lấy chồng
là Hương cống không rõ tên họ quê ở xã Tam Lộng huyện Lôi Dương.
**Đời thứ 2:
1. Chi cụ Nghi:
- Con trai là trưởng của cụ tên là Vị, đời Lê ấm thụ Hiển cung đại phu, trung thành môn vệ
úy xuất thân, tước Trường Trung bá, ngày tháng năm sinh, năm mất đều thiếu khuyết.
Cụ này không có con.
2. Chi cụ Đàm:
[76b]
- Con trai trưởng tên Mâu, sinh năm Canh Thìn. Năm Quí Mão niên hiệu Cảnh Hưng
thứ 44 thi đỗ Hương cống, ấm thụ Hiển cung đại phu trung thành môn Vệ úy xuất
thân tước Ninh Xuyên bá. Bản triều Gia Long năm đầu trưng bổ giữ chức Tri huyện
huyện Thần Khê, nhưng tìm cách bỏ về. Mất ngày 14 tháng 8 năm Minh Mệnh thứ 7,
thọ 67 tuổi, sinh 2 con trai là Tuấn và Ngạn. 1 người con gái là Thị Trinh, lấy
người Trung Quốc, không rõ tên là gì?
- Con trai thứ 2 của cụ Đàm tên Vịnh:
sống ở quê mẹ ở xã Văn Giáp làm Tổng trưởng, ngày tháng năm sinh, năm mất đều
không biết., sinh 3 người con trai là Đình, Sĩ, Lí và 2 người con gái, con gái
cả là Thị Cương, con gái thứ 2 là Thị Sáu, lấy ai thì đều không rõ.
- Con trai thứ 3 của cụ Đàm tên là
Đài: năm sinh, năm mất đều không rõ, gặp loạn quân Tây Sơn cụ tha phương không
biết đi đâu?
3. Chi cụ Hợi:
-Cụ Trữ: là
con trai duy nhất cụ Hợi, cụ sinh năm Canh Thân thứ 1 đời Lê Cảnh Hưng, năm Kỉ
Mão thi Hương đỗ Hương cống. Đương thời nức tiếng về văn học nên được ấm thụ là
Hiển cung đại phu trung thành môn vệ úy xuất thân tước Canh Nhạc bá, trải làm
quan các chức Tri huyện huyện Kim Động, Huyện úy huyện Thọ Xương, thăng Tri phủ
phủ Lị Nhân. Cụ mất ngày 21 tháng 4 năm Bính Thìn, hưởng thọ 57 tuổi. Sinh được
4 người con gái là: Thị Lương không rõ thân thế, Thị Nhiễm lấy ông họ Trịnh người
xã Sóc Sơn, Thị Trang lấy Trịnh Duy Chiêm người xã Sóc Sơn, Thị Thục lấy người
tên là Tổng Lượng người xã Yên Xá huyện Thụy Nguyên.
4. Chi cụ Nhậm:
- Cụ Trinh: phần này giống với gia phả của gia đình nên không dịch
[77a]- Cụ Thục: phần này giống
với gia phả của gia đình nên không dịch
- Cụ Bật: là con trai thứ 3 cụ Nhậm,
còn có tên là Yến, triều Lê có thi khoa Năng văn cụ đỗ thứ 1, năm sinh, năm mất,
tuổi thọ đều không biết.
- Cụ Tư: là con trai thứ 4 cụ Nhậm,
không rõ cụ sinh năm nào?đời Lê ấm thụ Mậu lâm lang Chiêu Văn quán nho sinh,
nay sống ở quê làm nghề dạy học, sinh 2 người con trai tên là Đạt và Cáo và 2
người con gái là Thị Nhuận, Thị Nhã cùng lấy người bản xã nhưng khuyết tính
danh.
- Cụ Đăng: là con trai thứ 5 cụ Nhậm,
năm sinh bị khuyết, nay sống ở bản quán, sinh 3 người con trái là Hương, Lư, và Diệu[14]
- Cụ Hựu: là con trai thứ 6 của cụ Nhậm,
năm sinh bị khuyết, trước là Xã trưởng, nay sống ở quê, sinh 1 người con trai
là Giai[15]
và 4 người con gái gồm: Thị Vịnh, Thị Nghị, Thị Trí, Thị Đổ lấy ai đều không
rõ.
- Cụ Soạn: là con trai thứ 7 cụ Nhậm,
năm sinh không rõ, gặp loạn Tây Sơn bị bắt đi tù rồi sau tha phương đi đâu
không rõ nữa.
5. Chi cụ Trác:
- Cụ Nga: phần này giống với gia phả của gia đình nên không dịch.
- Cụ Trí: lại có tên là Thủ, là con
trai thứ 2 cụ Nguyễn Trác, thời Lê trúng Sinh đồ, còn gọi là Đồ Điêu, năm sinh,
năm mất của cụ không rõ. Sinh được 1 người con trai tên là Nẫm[16],
1 người con gái là Thị Sấu lấy chồng người bản xã nhưng không rõ tên.
- Cụ Thận: là con trai thứ 3 cụ Trác,
năm sinh, năm mất không rõ, sinh được 2 người con gái là Thị Cẩn lấy chồng người
bản xã, làm lính và Thị Mật lấy xã trưởng người bản xã cũng không rõ tên là gì?
- Cụ Huyên: là con trai thứ 4 cụ
Trác, không rõ năm sinh, năm mất? sinh được 4 người con trai là Quyên, Thông,
Dĩnh, Ngôi.
6. Chi Cụ Tiệp:
- Cụ Vĩ: là con trai cụ Tiệp, năm
sinh khuyết, thời Lê ấm thụ Hiển cung đại phu trung thành môn Vệ úy xuất thân
tước Trạm Phái bá, loạn Tây Sơn lánh cư ở Hải Dương, làm nghề dạy học ở xã Hạ
Mô huyện Đông Triều, mất ngày 14 tháng 11 năm không rõ?, thụy là Từ Mẫn, an
táng tại xã đó, vì có công dạy học nhiều năm nên xã đó đưa vào thờ tự cùng đàn
thờ các vị tiên nho. Sinh được 1 người con trai tên Luân.
***Đời thứ 3:
1. Chi cụ Mậu:
- Cụ Tuấn là con trai trưởng
- Cụ Ngạn là con trai thứ 2
[78a] 2. Chi cụ Vịnh:
- Cụ Đĩnh: là con trai trưởng cụ Vịnh,
năm sinh khuyết, năm Mậu Tí niên hiệu Minh Mệnh thứ 9, thi Hương trúng Cử nhân.
Lúc đầu bổ giữ chức Tri huyện huyện Thanh Miện, rồi Tri phủ phủ Nam Sách, cụ bị
liên quan tới toàn án nên bị phạt, sau mới được thả, theo Tổng tốc Hải Dương là
Nguyễn Công Trức đến Tuyên Quang, làm chức Hiệu lực trong quân, sau khi trở về
vẫn giữ chức đó ở tỉnh, ngày tháng năm mất không rõ là khi nào?. Sinh được 3
người con trai và 4 người con gái đều không rõ tính danh nay đều sống ở xã Tiên
Mộc của bản huyện.
- Cụ Sĩ: là con trai thứ 2cụ Vịnh
- Cụ Lí: là con trai thứ 3 cụ Vịnh
3. Chi cụ Trinh:
- Cụ Thiện: là con cả cụ Trinh, năm
sinh, năm mất không rõ, không có con.
- Cụ Đại: là con thứ 2 cụ Trinh, năm
sinh, mất cũng không rõ., sinh 1 con trai tên là Độ và 3 người con gái là: Thị
Hiển, Thị Dự, Thị Hoạt lấy chồng không rõ tên là gì, ở đâu?
- Cụ Trụ: là con trai thứ 3 cụ Trinh,
không rõ năm sinh, năm mất, sinh 3 người con trai và 1 người con gái là Thị
Mãn.
- Cụ Thuyên: là con trai thứ 4 cụ
Trinh, năm sinh khuyết, năm Kỉ Mão, Tân Tị 2 khoa trúng Tú tài, hiện sống ở xã
Niệm Thượng của bản huyện, sinh 2 người con trai, con trưởng là Đãn, con thứ
khuyết danh.
- Cụ Tuấn: là con trai thứ 5 cụ
Trinh, năm sinh khuyết, nay sống ở bản quán là con thừa tự của ông bác là Nguyễn
Trữ.
[78b]
- Cụ Thưởng: là con trai thứ 6 cụ Trinh hiện sống ở xã Niệm Thượng.
4. Chi cụ Tư:
- Cụ Đạt là con trưởng, cụ Cáo là con
thứ 2.
5. Chi Cụ Đăng:
- Cụ Hương là con trưởng, cụ Lư là
con thứ 2, cụ Diệu là con thứ 3.
6. Chi cụ Hựu:
chỉ có 1 con trai là Cụ Giai
7. Chi cụ Chí:
chỉ có 1 con trai là Cụ Nẫm.
8. Chi cụ Huyên:
có 4 con trai là Cụ Quyên sống ở xã Nga Mi của bản huyện, cụ Thông là thứ 2, cụ
Dĩnh là thứ 3, cụ Ngôi là thứ 4.
9. Chi cụ Vĩ:
- Cụ Luân là con trai cụ Vĩ, theo cha sinh sống tại xã Gia Mô huyện Đông Triều,
mất an táng tại xã đó, năm sinh, năm mất của cụ đều không rõ, cụ không có con.
**** Đời thứ 4:
1. Chi cụ Đĩnh:
không khảo được con của cụ tên là gì?
2. Chi cụ Đại:
có 1 người con trai là cụ Độ
3. Chi cụ Trụ: có
1 người con trai tên Thảng
4. Chi cụ Thuyên: có 1 người con trai là Đãn, 1 người bị khuyết tên không khảo được.
5. Chi cụ Hương: sinh 1 con trai là Cụ Thôn.
*** Chi phái cụ Viện quận tướng công:
[80a] * Đời thứ 1:
1. Cụ Ôn Cẩn phủ quân (đã ghi chép trong chính phả)
2. Cụ Thuần Tĩnh phủ quân (đã ghi chép trong gia phả của bản chi)
3. Cụ Thiện:
là con trai thứ 3 cụ Viện quận tướng công, là con do người thiếp Lê Thị Lan
sinh ra, cụ sinh năm Quí Tị niên hiệu Cảnh Hưng thứ 34, năm đó Viện quận tướng
công 61 tuổi là vào năm tuổi, Trịnh Tĩnh Vương đích thân tặng 4 chữ đại tự là
Thiên Phúc Thiện Nhân, đúng lúc cụ được ban tặng chữ thì cụ Thiện ra đời nên đặt
tên cụ như vậy, sau cụ được ấm thụ Hoằng tín đại phu kiêm Quả nghị tướng quân
trung thành môn vệ úy xuất thân, tước Phúc Xuyên bá, cụ mất ngày mồng 8 tháng 5
năm Mậu Ngọ, hưởng thọ 27 tuổi, thụy là Ôn Thuần. Vợ cụ họ Vũ, khuyết danh, là
con gái Tiến sĩ Vũ Miên quê xã Xuân Quan huyện Lương Tài, sinh 1 người con trai
tên là Hi.
4. Cụ Tín: còn
có tên là Đoan, là con trai thứ 4 của cụ Viện quận tướng công, do người thiếp
là Hoàng Thị Vĩnh sinh ra. Cụ sinh giờ Tí ngày 17 tháng 9 năm Giáp Ngọ niên hiệu
Cảnh Hưng 35, ấm thụ Hoằng tín đại phu trung thành môn vệ úy xuất thân tước Kim
Lĩnh bá. Năm Kỉ Mão niên hiệu Gia Long thứ 18 triều Nguyễn trúng Sinh đồ. Cụ mất
ngày 26 tháng 6 năm Mậu Tí niên hiệu Minh Mệnh thứ 9, thọ 50 tuổi, thụy Trực Giản
hiệu Thận Trai. Vợ cụ là Nguyễn Thị Khoản, là con gái của Tiến sĩ Đốc trấn Nguyễn
Hương người xã Bình
Dân huyện Đông Yên, cụ bà mất ngày 23 tháng 6, hiệu Diệu Thủy, sinh 1 người con
trai là Đồng, và 4 người con gái: Thị Thơm lấy chồng là Hoàng Sĩ Dực người xã
Hoàng Vân, Thị Lễ, Thị Nghĩa, Thị Trí đợi khảo cứu sau.
[80b] Kính xét: Viện quận tướng công đương thời có người con gái trưởng là Thị
Nghiên, sinh 1 người con trai là con của Tự thừa họ Đinh người xã Bình Trù, tướng
công rất thương vì sớm mồ côi nên nhận làm con nuôi, đặt tên là Nguyễn Phẩm,
sau đỗ Hương cống cũng được dự ấm thụ Tự thừa tước Siêu Lĩnh bá, sinh được 1
người con trai là Nguyễn Ngẫu, phả cũ cũng liệt vào 1 chi, nhưng sau vì họ Đinh
không [hợp] với họ ta nên tước bỏ đi.
*Đời thứ 2: Chi cụ Ôn Cẩn phủ quân:
1. Cụ Cẩn Thận phủ quân: tên là Tự, là con trưởng cụ Ôn Cẩn phủ quân, do cụ chính thất
họ Đào sinh ra. Cụ sinh giờ Tị ngày 17 tháng 2 năm Tân Tị niên hiệu Cảnh Hưng
thứ 22, đậu Hương công năm Đinh Dậu, ấm thụ Hiển cung đại phu Chiêu Văn quán
nho sinh kiêm Quả Nghị tướng quân trung thành môn vệ úy xuất thân, Tự thừa, tước
Biểu Xuyên bá. Nhà Lê vong, cư ngụ nơi quê người mẹ kế là xã Đa Sĩ huyện Thanh
Oai, về già mới về quê gốc. Cụ mất ngày 12 tháng 10 năm Canh Thìn niên hiệu
Minh Mệnh thứ 1, thọ 60 tuổi, an táng tại xứ Cồn Xanh của bản xã, thụy là Cẩn
Thận hiệu Tốn Phong. Vợ cụ là Đào Thị Chiêu người xã Hà Mi, sinh được 5 người
con trai là Trinh, Bình, Điển, Chí, Hựu
và 4 người con gái: con gái trưởng là Thị Oanh lấy Ngô Thực người xã La Khê huyện
Từ Liêm; Thị Chức lấy Trịnh Quán người xã Thắng Lãm huyện Thanh Oai; Thị Miên lấy
Trịnh Tuệ người xã Thắng Lãm; Thị Kiệt, đợi khảo cứu tiếp. Nay xét ra là Cẩn thận
phủ quân là hàng trưởng tộc nên được đưa vào chính hả nhưng phả lại do tôi (tác
giả) viết nên mới biên soạn bắt đầu từ bác của tôi là Ôn Cẩn phủ quân trở lên
cho nên liệt cụ Cẩn Thận phủ quân vào hàng bị khảo để đợi đời sau tiếp tục bổ
sung, và vẫn theo các sách chính phả thì chỉ viết tên thụy chứ không viết tên
chính để phân biệt.
[81a] 2. Cụ Nhân: lại có tên khác là Liên, là con
trai thứ 2 cụ Ôn Cẩn phủ quân, là con do cụ kế thất họ Lê sinh ra, cụ sinh giờ
Tị ngày 20 tháng 8 năm Giáp Ngọ niên hiệu Cảnh Hưng thứ 35, thời Lê ấm thụ Mậu
lâm lang Chiêu văn quán nho sinh kiêm Quả nghị tướng quân trung thành môn vệ úy
xuất thân tước Ngọ Nhạc bá. Vào năm Quí Dậu niên hiệu Gia Long thứ 12 cụ thi đậu
Hương công, lịch trải các chức Tri huyện huyện Nga Sơn, Tri phủ các phủ Hà
Trung, Khoái Châu, từ Tri phủ được thăng Lễ bộ lang trung, đổi Bắc thành họ tào
lang trung. Năm Đinh Hợi niên hiệu Minh Mệnh thứ 18 ngày 14 tháng 4 cụ mất, hưởng
thọ 54 tuổi, thụy là Đoan Trực. Vợ cụ là Lưu Thị Hoàng là con gái cụ Tiến sĩ Đốc
trấn Lưu Tiệp người xã Nguyệt Áng huyện Thanh Trì. Cụ sinh được 5 người con
trai là Đàn, Tán, Kì, Thị, Kính[17] và 4
người con gái là Thị Mặc[18] lấy
Bùi Đễ người xã Thịnh Liệt huyện Thanh Trì; Thị Trinh[19] lấy
họ Vũ người xã Lộng Điền huyện Đại An; Thị Sầm[20] lấy
họ Đào người xã Hà Mi bản huyện; Thị Đổ[21] lấy
ai không rõ.
3. Cụ Trù: là
con trai thứ 3 cụ Ôn Cẩn phủ quân do người thiếp là Thị Thanh sinh ra, năm sinh
không rõ. Thời Lê ấm thụ Mậu lâm lang Chiêu Văn quán nho sinh kiêm Quả Nghị tướng
quân trung thành môn vệ úy xuất thân Sung Nhạc bá,
năm Quí Mão thi đỗ Hương cống, thụ Tự thừa, cụ mất ngày 14 tháng 5 năm Kỉ Dậu,
không có con. Lấy con trai thứ 3 của cụ Cẩn Thận phủ quân là Điển làm con nối
dõi.
4. Cụ Tố: là
con trai thứ 4 cụ Ôn Cẩn phủ quân, em cùng mẹ với cụ Trù, không rõ ngày sinh,
thời Lê ấm thụ Mậu lâm lang Chiêu Văn Quán Nho sinh kiêm Quả nghị tướng quân
trung thành môn vệ úy xuất thấn Thân Nhạc bá, mất ngày 14 tháng 8, năm sinh mất
không rõ. Cụ không có con , lấy người con trai thứ 4 của cụ Cẩn Thận phủ quân
là Chí làm con thừa tự. Vợ cụ họ Mai, là con gái do người thiếp của Thạch Tuyền
Khu mật sứ Mai Thế Uông sinh ra. Cụ Tố mất sớm không có con nối dõi nhưng cụ bà
họ Mai vẫn thủ chí thờ chồng, không quen với lối sống thành thị, người đời cười
và trêu bà rằng: tuổi mới ngoài 30 mà đã thủ tiết đến nay đã hơn 70 rồi vẫn là
bậc nữ lưu tiết tháo.
5. Cụ Cát: là
con trai thứ 5 cụ Ôn Cẩn phủ quân, do người thiếp tên Tòng sinh ra. Cụ sinh giờ
Sửu ngày 12 tháng 10 năm Kỉ Hợi đời Lê Cảnh Hưng 40, vợ cụ họ Lê người xã Hữu
Phác huyện Đông Sơn, hiện cụ sống ở quê vợ, sinh 8 người con là: Tĩnh, Thanh,
Đàm, Đạm, Túc[22], Tịnh, Tình Cận. Và 4 người
con gáiThị Khánh lấy người xã Vạn Lộc huyện Đông Sơn Nguyễn Bá Thiểm; Thị
Nguyên lấy Nguyễn Bá Lấm người xã đó; Thị Bích, Thị Đắc lấy ai không rõ.
*
Chi cụ Thiện:
1. Cụ Hi là
con trai trưởng, năm sinh, năm mất đều khuyết, sinh 1 con trai là Chiêu, 1 con gái là Thị Kiên lấy ai không rõ.
* Chi cụ Tín:
sinh được 1 con trai tên là Đồng.
***Đời thứ 3:
1. Chi cụ Cẩn Thận phủ quân:
- Cụ Trinh: là con trai trưởng cụ Cẩn Thận phủ quân, khuyết năm sinh,
cụ mất ngày mồng 5 tháng 5 năm Kỉ Hợi, sinh 5 người con trai là: Nho, Vịnh,
Tác, Ngũ, Dư[23] và 3 người con gái: Thị
Chiêu, Thị Hoàn, Thị Kĩ lấy chồng là ai hiện không rõ?
- Cụ Bình: là con trai thứ 2 cụ Cẩn Thận phủ quân, hiện sống ở xã Kim
Sơn, sinh 1 người con trai là Y và 5 người con gái.
- Cụ Điển: là con trai thứ 3 cụ Cẩn Thận phủ quân, năm Gia Long Đinh
Mão thứ 6 đậu Tú tài. Năm Minh Mệnh thứ 10 vì đậu Tú tài nên được trưng bổ làm
giáo chức địa phương, cụ nói năng khéo léo, được bổ chức Tư vụ bộ Công, sinh 1
con trai là Phú và 2 người con gái.
[82a] Cụ Trí: là con trai thứ 4 cụ Cẩn Thận phủ
quân, năm sinh, năm mất bị mất, sinh 1 con trai và 1 con gái đều còn nhỏ cả.
- Cụ Hựu: là con trai thứ 5 cụ Cẩn Thận phủ quân, cụ sinh giờ Mão
ngày 24 tháng 4 năm Giáp Dần, nay sống ở xã Đa Sĩ dạy học, sinh 3 người con
trai là Liêu, Ỷ, Tịnh.
2. Chi cụ Nhân:
con trai cả là Đàn, con trai thứ 2 là Tán, con trai thứ 3 là Kì, con trai thứ 4
là Thị, con trai thứ 5 là Kính.
3. Chi cụ Cát:
con trai cả là Tĩnh, con trai thứ 2 là Thanh, con trai thứ 3 là Đàm, con trai
thứ 4 làm Đạm, con trai thứ 5 là Túc, con trai thứ 6 là Tịnh, con trai thứ 2 là
Tình, con trai thứ 8 là Cẩn.
4. Chi cụ Hi:
con trai là Chiêu, chết sớm, không có con.
[90a] DI SẢN THỜ TỰ
1. Ruộng thờ tự của Nông quận tướng công để lại
Toàn thể họ Nguyễn ở xã Lan Khê huyện
Nông Cống phủ Tĩnh Gia kê:
1. Do tiên công Đại tư đồ Nông quận
công trước đây đã được chuẩn phong là Phúc thần của bản xã nên hàng năm có lệ
thờ cúng theo điển thờ. Nhưng từ sau khi có chiến tranh xảy ra việc thờ tự
không còn được như xưa nữa. Nay bản tộc già trẻ lớn bé tự xuất ruộng tư, ao, đất
được tất cả là 10 mẫu 10 thước cung tiến vào nhà thờ, ao ruộng đất đều cùng 1
thể thống nhất giao cho bản xã nhận làm ruộng công cộng của bản xã. Bản xã phụng
sự chiểu theo lệ cũ để việc thờ cúng được tuân theo đúng điển thờ, kéo dài đến
mai sau, các thửa ruộng, đất ao có kê khai ở tiếp ngay sau đây:
- Xứ Trại Hàng Đa đất ruộng tư là 5 mẫu 5 sào, còn 1 khu 6 mẫu, trong
đó trừ đi còn lưu lại 5 sào từ chỉ cũ tại bản tộc.
[90b] - Xứ Hàng Đa có 8 sào ao
- Xứ Mao Cầu có 5 sào ruộng
- Xứ Rộc 2 thửa liền nhau cộng là 1 mẫu
4 sào
- Xứ Rộc Đình gồm 5 thửa liền kề cộng
là 1 mẫu 1 sào 1 thước, và 2 sào.
- Xứ Rộc Nạp có 5 sào
Ngày mồng 9 tháng 3 năm Mậu Ngọ.
* Quan viên hương lão sắc mục và toàn
thể nhân dân xã Hương Khê huyện Nông Cống kê khai:
- Vì tiên công là quan Đại tư đồ Nông
quận công bao phong Đại vương từ triều Lê cũ, lại được phong là Phúc thần của bản
xã nên việc thờ phụng hương hỏa đã thành lệ hàng năm. Nhưng từ sau khi chiến
tranh xảy ra việc thờ cúng không còn được như xưa nữa. [91a] Nay bản tộc lại góp thêm một số tiền là 100 quan, ruộng,
đất ao gồm 10 mẫu 5 sào 10 thước ở 4 phía xung quanh nhà thờ. Bản xã thừa nhận
làm của công để lo liệu việc phụng sự. Nay lập văn từ.
Ngày 16 tháng giêng năm Gia Long thứ 10
(1811) thừa nhận văn từ.
2. Ruộng thờ do Viện quận tướng công để lại
Thư do chính Viện quận tướng công viết:
- Ngày giỗ của gia tiên 2 bên nội ngoại
xa gần cùng với các tiết lễ trong năm như ngày Thanh Minh, Đoan Ngọ, Cơm mới,
Trung thu theo truyền thống dân tộc đều phân chia cho con cháu cùng biện cỗ
dâng cúng đầy đủ. Đến ngày đó thì hành lễ. Họ ta quê quán ở xa mà nam nữ xa gần
lấy vợ gả chồng không giống nhau nên việc giỗ chạp e rằng tiến hành quá sơ sài
vì thế phải đặt riêng ruộng thờ gồm 25 mẫu 4 sào 3 thước (tại bản xứ gần quê gồm
10 mẫu 7 sào 7 thước, tại phía bắc thành gần thành 14 mẫu 4 sào 3 thước), giao
cho con trai trưởng cùng các con trai luân lưu gìn giữ, không được bán làm của
riêng. Phàm các ngày giỗ, các lễ tiết nên lấy số tiền thóc ở các khoảnh rộng đó
mua trâu, bò, gà, lợn, nấu xôi làm cỗ, trầu rượu, trà, hoa quả, đèn hương, nến
mã v.v...dâng lên từ đường hành lễ. Trong văn tế phải viết đầy đủ tên của đàn
ông, đàn bà người trong họ vào. Tế xong, chiếu xem trong họ hiện có những người
nào đích thân đến hành lễ [91b] thì
đều được tham dự ăn cỗ, lấy phần, còn ai không có mặt ở đó con cháu cũng đều có
phần cả, cứ ứng chiếu theo lệ đó mà làm và giữ nguyên đúng như vậy không được để
mất đi. Nếu có người nào đó sinh sự hoặc muốn tranh giành, hoặc tiếp tục khinh
thường, ngạo mạn mà dẫn đến việc thờ tự sơ sài, khiếm khuyết thì cho phép bản tộc
cứ căn cứ theo lệ này dâng lệ quan ti để chịu án luận tội!
Ngày mồng 10 tháng 10 năm Chiêu Thống
thứ 2 (1788).
* Số ruộng ở bản xứ gần quê gồm 10 mẫu
7 sào 7 thước là:
- Ở xứ Lôi Dương xã Tào Lâm bản huyện
có 1 mẫu 6 thước 7 tấc, lại có 9 sào 7 thước, cộng là 1 mẫu 9 sào 13 thước lẻ.
- Ở thôn Đồng Nẻ huyện Đông Sơn có 4
mẫu 7 sào 9 thước (ở các xứ: Nội Dưới, Đồng Đường Ngang, Đường Cửa Ngoài, Lũy Bến,
Lũng Sâm, Lũng Dựng, Ngã Tư Nang, Đình Mả Chướng, Đồng Bằng, Vườn Hiêu, Mả Dụ,
Mả Đàn, Mình Đồng).
- Ở xã Vạn Lộc huyện Đông Sơn gồm có
3 mẫu 2 sào ( ở các xứ: Nội Quần, [ ]
Trường, Nguyễn Quần, Họa Quần Đống, Họa Quần, Trường Đình).
- [92a] Ở xứ Cửa Điện thôn Cái Xứng xã Phù Liễn huyện Đông Sơn có 8
sào.
* Ở phía bắc thành[24] gần
thành ruộng giỗ có 14 mẫu 4 sào 3 thước là:
- Ở xã Đô Quan huyện Thượng Phúc đất
vườn có 3 mẫu 4 sào 6 thước (là trại cũ của Nông Quận công, cả năm thu thuế 10
quan tiền).
- Ở xứ Gia Tán xã An Diên huyện Thượng
Phúc có 5 mẫu 7 sào
- Ở xã Đa Sĩ huyện Thanh Oai có 1 mẫu
9 sào 5 thước ( ở các xứ: Nội Mả Thi, Đường Ngang, Bàn Bôn, Đường Triền, Đường
Đâu, Đường Trạch, Cây Cức).
- Ở xứ Bàn Bôn thôn Ba La huyện Thanh Oai có 3 sào.
- Ở xã Thắng Lãm huyện Thanh Oai có 3
mẫu 7 thước (ở các xứ: Nội Đề, Bạn Pha, Ra Đống, Lệ Man, Đâu Bàn Hộ, Đầu Cống,
Đầu Cầu, Man Trẫm, Đồng Chúc, Đồng Đông, Cửa Ra, Chùa Đống).
[92b] Nay căn cứ vào việc đặt ruộng giỗ lúc đầu thì tất cả đều giao
cho trưởng chi và các con trai ở các chi luân lưu gìn giữ, đại ý là muốn để
cùng nhau duy trì và dừng ngay tệ bán đất để làm của riêng. Nhưng rồi sau đó các con trai ở các
chi tùy nghi di tản nên không thể tuân theo di mệnh của gia tiên nên chỉ có mỗi
trưởng chi chuyên cai quản, ruộng cũ nay còn mất ở đâu chẳng có ai có thời gian
để mà hỏi nữa.
Nay tra số ruộng thờ thì số ruộng lúc
đầu ở gần quê thì chỉ có ở xã Tào Lâm có 1 mẫu 9 sào lẻ, trưởng chi đã đem đi
bán, còn lại ruộng ở các thôn xã Đồng Nẻ , Vạn Lộc, Cái Xứng thì cũng đều chia
năm xẻ bảy không thể theo di mệnh đến để mà nhận được. Cho đến số ruộng thuộc
các xã ở Hà Nội thì trưởng chi cũng đều đã thay đổi để bán, gần nhất là theo
người cháu tên Trinh nói rằng các cụ đi trước đã bán hoặc có sự trao đổi về đất
đai. Ở xã Đa Sĩ và thôn Cầu Trì có tất cả 6 mẫu 4 sào 3 thước 6 tấc đất để làm
ruộng giỗ ý là để cho gần gũi thuận tiện, trong đó ở xã Đa Sĩ có 1 mẫu 9 sào 4
thước 8 tấc (Đường Trạch 1 sào 2 thước do Văn Ngự nhận canh tác, 1 sào 2 thước
do Văn Trạch nhận canh tác, Mả Thi 2 sào 7 tấc, Hậu Xá 2 sào 1 thước 7 tấc, 1
sào 6 thước 1 tấc, 1 sào 6 thước 4 tấc đều do Văn Bả nhận canh tác, Đường Triền
12 thước 2 tấc do Văn Tài nhận canh tác, Cây Cức 1 sào 5 thước 8 tấc do Lão
Ngưng nhận canh tác, Trên Vườn 12 thước Xã An nhận canh tác, lại có 12 thước do
Văn Hiển nhận canh tác, ở xứ Đồng Lập có 1 sào 5 thước do Bổ Thực nhận canh
tác, xứ Đồng Tịch có 1 sào 5 thước [93a]
do Ông Quang nhận canh tác, xứ Đường Triền có 2 sào do Đồ Đạt nhận canh tác, Hậu
Xá có 12 thước, Trên Đồng có 10 thước đều do Danh Đàm nhận canh tác. Thôn Nội Cầu
Trì có 4 mẫu 4 sào 8 thước 8 tấc (Trước Cửa 14 thước, 1 sào 9 thước, 1 sào 5
thước, 13 thước 1 tấc, 1 sào 5 thước, 10 thước. Bạch Tào 1 sào 5 thước, 1 sào 2
thước 5 tấc, 1 sào 4 thước. Đồng Nội 1 sào 6 thước 3 tấc, Trên Vườn 14 thước 5
tấc, Đồng Trùng 1 sào 4 thước, Cửa Quán 1 sào 1 thước đều do Tri Quân nhận canh
tác, Quán Trước Vườn 1 sào 10 thước, Khu Sai 1 sào 10 thước đều do Bổ Liệt nhận
canh tác, Bạch Tào 1 sào do Đồ Đạt nhận canh tác, Vườn Quán 1 sào 1 thước, Đồng
Trà 13 thước, Khúc Đường 1 sào, Bạch Tào 2 thửa 1 sào 12 thước đều do Bổ Thực
nhận canh tác).
Than ôi! Đất đai thờ cúng của tổ tiên
để lại đã không giữ gìn được còn đem trao đổi, mua đi bán lại 6 mẫu, nói là để
cho gần gũi thuận tiện thực ra chỉ là ngụy biện mà thôi! Đến nay cũng chẳng còn
lại được là bao nhiêu nữa! Hỡi ôi! Con cháu của gia đình thế phiệt như vậy có
phải là hiền đức không? Nếu không phải là người hiền thì dù cho tổ tiên có để lại
của cải vàng bạc đầy nhà thì cũng không giữ nổi tới một ngày đâu. Vậy còn oán
trách nỗi gì? Vậy nên sống ở đời thuần hậu để dốc chí cho cháu con muôn đời
không sa sút, sự hưng thịnh của nho thư tất cả đều nằm ở người con trưởng tảo tần
sớm hôm, thờ phụng gia tiên chu đáo chính là nguyện vọng vô cùng sâu sắc vậy!
[93b] Ruộng đất hương hỏa ở tại
quê hương
- Đất vườn có 12 khu là: Từ đường ở làng cũ 1 khu, đất hương hỏa 1
khu, ao hương hỏa 2 thửa gần nhau, Làng Mới Nội Doanh 1 khu 4 sào, bên cạnh 2
khu 2 sào, nhà thờ 1 khu 1 sào, Ngoại Doanh 4 khu, Ngõ ngoài 1 khu, hồ 1 khu.
- Nội Ruộng có 18 mẫu 6 sào 11 thước:
Rộc 5 sào, 4 sào (ông Vĩnh canh tác), Rộc 5 sào, 4 sào, 4 sào (ông Lò canh
tác), Cồn Đá 1 sào (lão Thanh canh tác), Đồng Bả 2 sào, Cồn Đá 1 sào, Đội Trong
4 sào (mụ Duyên canh tác), Rộc 4 sào (nhà Thảng canh tác), Rộc 5 sào, Cồn Chùa
5 sào (Nguyễn Hương canh tác),Cồn Chùa 3 sào 9 thước (nhà Bạ canh tác), Cồn
Chùa 2 sào (nhà Lan canh tác), Sau Hồ 1 sào (mụ Phòng canh tác), Đội Giữa 6 sào
(lão Sến canh tác), Làng Mới 2 sào (lão Hậu canh tác), Cồn Chùa 12 thước, 4 sào
8 thước (nhà Nông canh tác), Trước Hồ 2 sào rưỡi và Rộc Nông cộng tất cả 1 mẫu
(lão Câu canh tác). [94a] Đội Giữa 4 sào, 2 sào (nhà Xuyến
canh tác), Đội Giữa 2 sào (Văn Chuyên canh tác), Cồn Hóa 1 sào (Nguyễn Hương
canh tác), Đội Giữa 4 sào, Rộc Nông 2 sào, Sau Hồ 2 thửa 4 sào (Lão Dung canh
tác), Cồn Ban 4 sào, Đội Dũng 8 sào (Lão Tăng canh tác), Đường Sau 4 sào (nhà
Đàm canh tác), Cồn Hoa 3 sào (nhà Thứ canh tác), Đội Dũng 2 sào (lão Mãi canh
tác), Cồn Hoa 3 sào (lão Chuyên canh tác), Bên Vườn 4 sào rưỡi, Cồn Giếng 5
sào, 5 sào nữa (nhà Bộ canh tác), Cồn Hoa 2 sào, [ ] Lò 2 sào (ông Lò canh
tác), Đội Dũng 7 sào (nhà Kiểm canh tác), Đội Dũng 2 sào, Miếu Cũ 10 thước (lão
Biền canh tác), Cửa Lăng 2 thửa 9 sào (từ Tế canh tác), Cồn Hoa 3 sào, 13 thước
nữa, Đội Giữa 2 sào, Làng Mới 13 thước, Đồng Bả nửa sào, Thủ Từ 3 sào (Văn Đồng
canh tác), Sau Hồ 1 sào rưỡi, Đội Giữa 5 sào, Đồng Đăng 2 sào (Nhà Miên canh
tác), Đội Giữa 5 sào (nhà Ý canh tác), Đồng Đăng 4 sào, Giếng Mới 2 sào, Sau Hồ
1 sào, Làng Mới đất vườn 2 sào (lão Huấn canh tác).
[95a] GHI CHÉP VỀ NGÀY GIỖ CỦA
LIỆT VỊ GIA TIÊN
Tháng giêng có:
- Ngày 11 là ngày giỗ của cụ Chính thất
họ Lê hiệu Từ Ý là vợ của cụ Đạo Chính phủ quân.
- Ngày 17 là ngày giỗ của cụ Chính thất
họ Hoàng hiệu Từ Ân là vợ của cụ dưỡng tổ Vô Vi phủ quân ở Đức Trạch. Đó cũng
là ngày giỗ của cụ chính thất họ Lê hiệu Đoan Thục vợ cụ Trực Lượng phủ quân.
- Ngày 24 là ngày giỗ của cụ Á thất họ
Nguyễn hiệu Phương Dung là vợ thứ của cụ Nông quận tướng công.
- Ngày 28 là ngày giỗ của cụ dưỡng tổ
Cương Dũng phủ quân.
- Ngày 20 là ngày giỗ của cụ Tham
chính Nguyễn Hân
- Ngày 29 là ngày giỗ của cụ Tả lạng
Nguyễn Nghi.
Tháng hai có:
- Ngày mồng 1 là ngày giỗ của cụ dưỡng
tổ Phúc Thông phủ quân ở Đức Trạch
[95b] - Ngày 15 làng ngày giỗ cụ chính thất họ Đỗ hiệu Từ
Chí vợ của cụ Phúc Thông phủ quân.
- Ngày mồng 2 là ngày giỗ của cụ Thừa
chánh sứ Nguyễn Hợi
- Ngày 29 là ngày giỗ của cụ Tả binh
Nguyễn Lạng (Lưỡng, Lượng).
Tháng ba có:
- Ngày mùng 9 là ngày giỗ cụ chính thất
họ Hà hiệu Đoan Từ là vợ cụ dưỡng tổ Thiện Nghị phủ quân.
- Ngày mùng 1 là ngày giỗ của Hoằng tín
đại phu Nguyễn Tiệp
- Ngày 18 là ngày giỗ của Điềm Chất
phủ quân ở Đức Trạch.
- Ngày 22 là ngày giỗ của cụ Hà Minh
Lễ của họ Hà.
Tháng 4 có:
- Ngày mùng 4 là ngày giỗ của cụ dưỡng
tổ Phúc Bảo phủ quân.
- Ngày mồng 10 giỗ cụ kế thất họ Lê
hiệu Thiện Tín là vợ kế của cụ Ôn Cẩn phủ quân.
- Ngày 14 là ngày giỗ cụ Lang trung
Nguyễn Nhân
- Ngày 21 là ngày giỗ của cụ Phủ lị
Nguyễn Trữ
[96a] Tháng 5 có:
- Ngày mồng 1 là ngày giỗ của Viện quận
tướng công
- Ngày mồng 4 là ngày giỗ của cụ thứ thất họ Lê hiệu Trinh Túc
vợ của cụ Viện quận tướng công
- Ngày mồng 9 là ngày giỗ của cụ Trực
Lượng phủ quân
- Ngày 11 là ngày giỗ của cụ Nông quận
tướng cống
- Ngày 13 là ngày giỗ của cụ Đạo
Chính phủ quân/
- Ngày mồng 8 là ngày giỗ cụ Nguyễn Thiện
- Ngày 14 là ngày giỗ cụ Nguyễn Trù
Tháng 6 có:
- Ngày mùng 3
là ngày giỗ của Thuần Tĩnh phủ quân
- Ngày 12 là ngày giỗ của cụ chính thất
họ Phan hiệu Trinh Mẫn là vợ của cụ Thuần Tĩnh phủ quân.
[96b] - Ngày 23
là ngày giỗ của cụ dưỡng tổ Vô Vi phủ quân ở Đức Trạch.
- Ngày mồng 10 là ngày giỗ của cụ
Nguyễn Vị.
- Ngày 24 là ngày giỗ của cụ Nguyễn
Kiệt
- Ngày 26 là ngày giỗ của cụ Nguyễn
Tín.
Tháng 7 có:
- Ngày mồng 6 là ngày giỗ của cụ
Chính thất họ Đào hiệu Nhu Thuần là vợ của cụ Ôn Cẩn phủ quân.
- Ngày mồng 9 là ngày giỗ của cụ Ôn Cẩn
phủ quân.
- Ngày 17 là ngày giỗ của cụ chính thất
họ Phạm hiệu Huy Nhu là vợ của cụ Viện quận tướng công.
- Ngày 27 là ngày giỗ của cụ chính thất
họ Phạm hiệu Từ Đức là vợ của cụ dưỡng tổ Cương Dũng phủ quân.
Tháng 8 gồm có:
-Ngày 14 là ngày giỗ của cụ Đạo Hành
phủ quân. Đó cũng là ngày giỗ của cụ dưỡng tổ Thiện Nghị phủ quân
Tháng 10 gồm có:
- Ngày 12 là
ngày giỗ của cụ Cẩn Thận phủ quân
- Ngày 13 là ngày giỗ của cụ chính thất
họ Tống hiệu Trinh Khiết là vợ cụ Nông quận tướng công.
- Ngày 21 là ngày giỗ cụ Nguyễn Nhậm.
- Ngày 23 là ngày giỗ của cụ Tự khanh
Nguyễn Trác.
Tháng 11 gồm có:
- Ngày 26 là ngày giỗ của cụ kế thất
họ Lê hiệu Đoan Tĩnh là vợ thứ của cụ Nông quận tướng công.
- Ngày 14 là ngày giỗ của cụ Hà Văn
Tường. Cũng là ngày giỗ của cụ Nguyễn Vĩ.
- Ngày 24 là ngày giỗ của cụ Phan Công Kính.
- Ngày 28 là ngày giỗ của cụ Đồng Thanh
Nguyễn Đàm.
Tháng 12 gồm có:
- Ngày mồng 8
là ngày giỗ của cụ chính thất họ Phạm hiệu Từ Tại là vợ cụ Đạo Hành phủ quân.
- Ngày mùng 2 là ngày giỗ cụ Hà Văn
Trinh
- Ngày 17 là ngày giỗ cụ thứ thất họ
Nguyễn hiệu Từ Đoan vợ thứ của cụ Nông quận tướng công. Có chỗ nói là cụ giỗ
ngày 16, đợi khảo lại.
Hà Nội ngày 20 tháng 7 năm 2011
Người biên dịch, khảo cứu
Thạc sĩ Vũ Thị Lan Anh
Viện nghiên cứu Hán Nôm
Viện nghiên cứu Hán Nôm xác nhận:
Thạc sĩ Vũ Thị Lan Anh là cán bộ của Viện
[1] Hoàng triều: tức triều
Nguyễn.
[2] Gia phả gia đình gọi là Tầng.
[3] Gia phả gia đình ghi là Trần
Danh Tuyên, thực chất là Trần Danh Tiêu, các tài liệu đều ghi là Tiêu.
[4] Gia phả gia đình viết là Hằng,
chữ đó đọc là Hoằng.
[5] Gia phả gia đình viết là
Kì, chữ đó phải đọc là Ỷ.
[6] Gia phả gia đình viết là
Trinh, chữ đó phải đọc là Tịnh.
[7] Gia phả gia đình viết là
Chúc, chữ đó phải đọc là Sí.
[8] Gia phả gia đình viết là bắc
cử, không có nghĩa. Sửa là Bác cử (bác tức là uyên bác) mới đúng.
[9] Gia phả gia đình viết là
Nha, cần sửa lại cho chính xác. Vì chữ Nhu và Nha là hoàn toàn khác nhau. Trong
các tài liệu liên quan tới cụ tại Viện Hán Nôm đều viết là Nhu.
[10] Gia phả của gia đình viết
là Tính, cần sửa lại là Tĩnh cho đúng.
[11] Gia phả của gia đình viết
là Nghiêm, sửa lại là Nghiên.
[12] Gia phả gia đình ghi là
Cường. Xin đọc lại cho đúng là Tường.
[13] Văn bản chép nhầm là Bính
Tuất, thực chất năm Vĩnh Thọ thứ 1 là năm Mậu Tuất.
[14] Trong gia phả gia đình
ghi là Thương, Lự, Liệu.
[15] Gia phả gia đình ghi là
sinh 2 con trai là: Giai và Khoa (khuyết)
[16] Gia phả gia đình ghi là Mẫn?
[17] Gia phả gia đình chép là:
Đàn, Tán, Nho, Đức, Cung.
[18] Gia phả gia đình chép là
Mạc
[19] Gia phả gia đình chép là
Trình
[20] Gia phả gia đình chép là
Khâm
[21] Gia phả gia đình chép là
Đơ.
[22] Gia phả gia đình chép là
Tục
[23] Gia phả gia đình ghi là sinh 6 con trai: Nho,
Vịnh, Tác, Điều, Ngũ, Dư?
[24] Bắc thành: là từ thời
Nguyễn dùng để chỉ địa danh chung của 13 tỉnh miền bắc, trong đó có Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét