GIA PHẢ (HỌ NGUYỄN HÀ)
VHv.1754/1
Dịch nghĩa:
[1a] Quyển thủ gia phả
Bài Tựa
Gia phả của họ ta từ Viện quận tướng
công mới bắt đầu biên tập thành sách nhưng việc ghi chép còn rất là sơ lược.
Cho đến tiên khảo Thuần Tĩnh phủ quân cũng vẫn phải khảo cứu và sưu tầm nhưng
cũng hết sức lược biên. Sự trạng của Viện quận tướng công mãi tới gần đây thì Trực Giản phủ
quân mới dựa vào phả cũ
biên tập và ghi chép lại đầy đủ thì hành trạng của Viện quận tướng công mới được
rõ ràng. Trong lúc ghi chép lại có một vài chỗ không phù hợp với cách chép sử bởi
lẽ nhà nho hay chữ cũng có ghi chép gia phả của gia tộc, vì gia phả là lịch sử
của dòng họ. Lịch sử của đất nước có các ghi chép theo quốc sử, gia tộc cũng có
cách biên soạn theo lịch sử gia tộc nhất định phải có sự phân biệt thân, sơ, để
sao cho làm rõ thế thứ các đời, dựa vào điều nghĩa nhưng cũng không vượt quá xa
so với thể tài vậy. Tôi (người viết bài tựa) thường đọc Tô thị tộc phả trong đó có dẫn rằng: “Từ cha của ta cho đến cụ cao
tổ của ta có làm quan hay không, lấy ai, hưởng thọ bao nhiêu tuổi, mất ngày nào
đều được ghi lại còn nếu
như người ta mà không ghi lại thì không thể biết được rằng ta từ đâu mà ra? Từ cha của ta đến các cụ cao tổ của ta
đều ghi rõ tên húy của các cụ là gì còn người ta thì chỉ viết tên mà thôi cho
nên ta cũng tôn lên được nguồn gốc ra đời của mình vậy!”, lại viết tiếp:
"Tình nghĩa thì xem xét ở mức độ thân thiết, sự thân thiết thì xét ở trang
phục , nếu trang phục càng đầy đủ thì tình nghĩa càng đậm sâu [1b], tình nghĩa đậm sâu thì là người
thân thích chứ không thể như người xa lạ không
quen biết được. Anh em thì hai người là một nhưng thật buồn là thân phận một
người mà lại bị coi như người xa lạ vì thế nên ta phải viết gia phả!”. Cách nói
ấy thực ra xuất phát từ Kinh lễ uyên thâm, ngày nay dựa vào đó mà mô phỏng dựa
theo thư pháp của Lão Tô mà đem các bản phả cũ ra để biên soạn lại, từ cụ Thủy
tổ Tính Chân phủ quân về sau cho tới cụ Cao tổ Chân Lượng phủ quân của ta ghi
chép gọi là gia phả tiền biên các đời. Từ cụ Tằng tổ Nông Quận tướng công đến
bác của ta là Ôn Cẩn phủ quân gọi là gia phả chính biên. Còn Ông của ta là Thuần Tĩnh phủ quân thì ghi chép riêng
là biệt chi, cho đến các chi nhánh khác thì đều gọi là các chi phái riêng biệt.
Bị khảo gia tiên các đời, theo thế thứ mà biên soạn theo cách trước hết là chức
tước rồi đến thụy hiệu rồi sau đó là hành trạng, sự tích, chủ yếu làm sao để giữ
được tính chân thực mà khảo chứng, luận bàn. Rồi phụ kèm các chi phái riêng biệt
cũng theo cách là tên họ rồi đến sơ lược về hành trạng, thứ đến mới các chi tiết
liên quan để làm sao làm nổi bật rõ ràng xuất thân của ta để rồi hợp với nguồn
gốc của những người mà ta chưa quen biết thành một họ thống nhất, cũng là để
làm rõ chi phái các đời trong một giềng mối thống nhất, kỉ cương. Từ nay về
sau sách vở không bị đứt đoạn, cháu con nối dõi đời đời thay nhau tu bổ,
cho đến nghìn năm sau
miêu duệ cũng có thể khảo cứu và biết rõ về cội nguồn, [2a] biết được việc của nghìn năm trước để không có gì lay chuyển
được dòng họ danh gia dù có lúc thăng trầm theo thời thế. Kẻ hậu nhân là ta vì
nghĩ tới những điều đó nên cầm bút ghi lại những dòng này.
Tiết Lập thu năm Tân Sửu niên hiệu
Thiệu Trị thứ 1 (1841).
Người cháu là Bảo kính cẩn vâng soạn
tại tỉnh Đông.
[2b] LỜI TỰA GỐC
(Đây
là lời Tựa do cụ Viện quận tướng công khi biên soạn gia phả đã viết).
Trộm nghe: Các cụ thủy tổ của ta có
người là nông dân, có người là bậc hào phú, trong họ có người phát đạt ở trường
làng, cũng có người dấn thân nơi triều chính, đắng cay mặn ngọt đường đời đã từng
nếm trải. Bậc Thánh thượng cổ vũ nho khoa thi cử để khôi phục sự nghiệp cho kẻ
hiền tài. Duy chỉ có cụ Thần khảo họ ta xuất thân nơi thôn dã, niềm vui chỉ với
bờ bãi mà được đăng khoa, khởi dựng cơ đồ cho các bậc nho sĩ của họ ta được
vinh danh từ đó. Thanh danh, văn vật của ấp ta thực tất cả nhờ vào quyền uy của
cụ Thần khảo nhà ta vậy! Cụ đúng là bậc tổ của các vị tiên hiền trong bản ấp vậy!.
Cụ Thần khảo đã trải muôn vàn khó khăn trong sự nghiệp, thừa mệnh trời ưu ái
nên được vào cung phụ giúp vua nói và làm những điều ngay thẳng., một người
lương thiện thì vạn quốc nghe theo. Ở nơi gác vàng giữ chức Tham bồi mà mà làm
điều nhân điều đức, sống vì nhân dân, vừa hiến kế sách cho vua đúng đắn mà trăm
dân được thấm nhuần. Cụ còn là bậc sống khiêm nhường, cung kính trong hành xử,
lấy sự ôn hậu để đối đãi người ngoài, làm quan ngay thẳng và cẩn thận giống như
người vác cây gậy chống vậy!. Kẻ sĩ nhớ đến cụ với ân thâm sâu sắc vì cụ đã vun
trồng tính kế lâu dài giúp cho, thế nên mới phát đạt. Công lao vĩ đại của cụ
làm rạng rỡ tổ tông, lan tỏa ánh sáng tới cháu con muôn đời. Cho nên được tắm gội
bởi ơn mưa móc là ánh sáng của bậc phúc thần là cụ nhà ta. Miếu mạo nguy nga,
điển thờ mãi mãi, xuân thu hưởng báo đáp dốc lòng vươn tới những điều tốt đẹp,
cho nên nền móng hưởng phúc lành, cánh phượng cứu giúp gia thanh rạng vẻ! Đời đời
nối dài chẳng phải là việc ngẫu nhiên mà có được!. Dấu tích chính là ở chỗ tổ
tiên được cư ở những nơi danh giá mà tinh tế thi hành những điều có ích khiến
tiếng tăm [3a] được vang xa chẳng cần
phải biểu dương hay cổ súy thì cũng đủ để răn dạy cháu con lấy truyền thống gia
đình làm cho ngày càng tốt đẹp hơn nữa, vì thế mà càng phải cẩn thận trong việc
ghi chép gia phả để lưu truyền cho cháu con, khiến cho hậu thế tử tôn được mục
sở thị để biết được những việc làm ích lợi, tốt đẹp của tổ tông, từ đó suy
nghĩ, ngưỡng mộ và làm theo. Để mà ngẫm nghĩ về thịnh đức của tổ tiên, công lao
vĩ đại phải được mãi duy trì và tuân thủ, lấy đó mà làm mô phạm để chấp hành, lấy
đó là cơm ăn áo mặc để truyền đến cho cháu con. Có như vậy thì phúc trạch của
sách vở thi thư mới có đường để mà lưu truyền mãi mãi. Nay viết ra đây làm bài
Tựa!
Ngày tốt tháng giữa đông năm Cảnh
Hưng thứ 33 (1772)
[3b] LỜI TỰA GỐC
(Khi người chú của ta là Trực Giản phủ quân biên tập gia phả thì có người
bạn của chú viết hộ bài Tựa này).
Cụ Quốc sư triều Lê là con trai cụ Quốc
sư triều trước, một nhà có 2 ngọn núi sừng sững như vậy đó! Hành trạng của cụ
có thể xem trong cuốn Nguyễn Đại gia thế đức chi phả do con trai của cụ là Tín
mới biên tập. Sách đã hoàn thành liền trưng lên cho ta xem, ta trộm nghĩ vạn vật
trong thiên hạ vốn có gốc bởi trời, con người có nguồn gốc từ tổ tiên, cho nên
có thể nói họ Đàm lấy từ sách Xuân thu để mà biên soạn sách vở bắt đầu từ Thái
sử công thế gia liệt truyện, gia tộc có gia phả cũng bắt đầu theo cách làm này
từ đó. Ta là người thường được đọc nhiều bản gia phả lớn của đất nước, các vị Hội
nguyên, Tư giảng đời nào cũng có, Tham tụng, Tư đồ đời nào cũng có, nhưng nối đời
đậu Hội nguyên, giữ chức Tư giảng, nối đời giữ chức Tham tụng, lại Tư đồ thì
xem ra khắp đất nước chẳng có ai được như cha con của cụ vậy. Người ta cho rằng
có thể qui về được phúc ấm của thế đất, có người cho rằng là nhờ âm công, vậy
mà đời cũng có cha con cụ chẳng phải là điều kì diệu mà chẳng thể định luận nổi
hay sao? Đại để rằng trong vòng trời đất này có lí, có số, khi lí số có giá trị
ngang nhau thì những người xuất thế nổi danh vậy. Từ đời Lê trung hưng về sau
đó khoảng 200 năm là thời điểm lí số cực kì thịnh trị, phúc tinh chiếu dọi, lại
xuất hiện thời kì chính chân nguyên, nghìn thu hội ngộ một thời, mà quê cụ lại
là đất trung hưng của nhà Lê, vượng khí hun đúc chung linh, thật khác biệt với
tầm thường! Cho nên, trên thì có các bậc vua nối đời kinh bang tế thế, phía dưới
có các vị tôi thần cha con nối đời [4a]
, đó chính là bí mật của tạo hóa, nhưng cũng chẳng phải bỗng dưng xuất hiện ngẫu
nhiên vậy!
Các bậc thế thần, thế khanh, thế tướng thời cổ
xuất hiện cũng là đương nhiên. Trong các bức trướng văn mừng cụ về trí sĩ của
triều đình có viết: Trời giúp dập tùy từng đất nước, tất sinh bậc tướng thần đạo đức lớn lao, thứ đến là giúp
dập cho vận nước hưng bình, xét về mặt lí số mà nói thì đó cũng là sự ứng nghiệm
vậy! Nhưng, đường công danh hơn người thì cũng có điểm sai sót hơn người, chuyện
cũ tang thương, ngắt quãng, việc biên soạn bị tàn khuyết, 10 phần chỉ còn 1,
nghìn bài văn bài thơ thì tập hợp lại cũng chẳng thể đủ được. Vì thế, con cháu
đời sau muốn tìm hiểu về văn chương của cụ thì có tuyển tập các bài văn trong
các kì thi Hội, muốn tìm tên đỗ đại khoa của cụ đã có bia đá khắc ghi, muốn biết
về công tích của cụ thì tìm đọc Lê triều
sử kí, muốn tìm hiểu về sự nghiệp quan lộ của cụ thì tìm trong thơ phú
v.v..., muốn tìm hiểu về đức độ của cụ đã có bia miệng lưu truyền ở làng xóm
quê hương, cũng chẳng nghe thấy những điều dị nghị bao giờ? Cụ quả là thần diệu
biết bao!, cho đến việc tu đạo đường đời có thể nói là cụ khi biết ẩn mình giữa
cuộc đời, khi ở vào chỗ lưu hầu khanh tướng thực hơn người, cho nên có người viết
về cụ rằng [4b]: phú quí công danh chỉ
như đám mây nổi mà thôi, trước nay quyền hành đã nếm trải đủ rồi. Để thấy rằng
ánh sáng trí tuệ của cụ vô cùng minh mẫn, có thể nhìn thấu chốn quan trường đấu
đá mệt mỏi, thực là sống ở trần gian mà chẳng nhiễm bụi trần, nhập thế rồi xuất
thế, chẳng lụy vì những thói tục thường tình, chẳng vì vật đổi mà sao phải dời,
ngang nhiên vẫy vùng giữa trời bể bao la. Khí thiêng của núi Nưa, núi Hoàng hun
đúc, cốt cách của Từ Thức, Phạm Viên tạo nên, địa linh nhân kiệt, giáng xuất có
thời, cho nên sự nghiệp mới vẻ vang, công danh hiển thế đến vậy! Sự huyền diệu
đó không thể một sớm một chiều đem cái nhãn quan của người trần và cái tâm bồng
bột ra để mà bàn luận được cho nên phải biên thành gia phả. Những điều đặc sắc
về cụ chưa thể kể đủ hết nhưng cụ nhà ta là người có ý muốn ở việc kế thừa cho
nên thu thập và biên thành gia phả, cho nên không thể xem nhẹ việc này được và
người đọc cũng phải cũng thực sự tỉ mỉ vậy.
Năm Minh Mệnh thứ 6 (1825). Kẻ hậu học
là người cùng quê tên Vô Danh thị bái đề.
[5a] NIÊN BIỂU GIA PHẢ
Năm Giáp Ngọ niên hiệu Hồng Đức thứ 5
(1474) đời vua Lê Thánh Tông Thuần Hoàng đế. Vào năm này cụ Tính Chân phủ quân
cùng anh là Thọ bắt đầu di cư đến thôn Biểu Nộn xã Vĩnh Khê huyện Nông Cống.
Năm Ất Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 6
(1475)
Năm Bính Thân niên hiệu Hồng Đức thứ
7 (1476)
Năm Đinh Dậu niên hiệu Hồng Đức thứ 8
(1477)
Năm Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức thứ 9
(1478)
Năm Kỉ Hợi niên hiệu Hồng Đức thứ 10
(1479)
Năm Canh Tí niên hiệu Hồng Đức thứ 11
(1480)
Năm Tân Sửu niên hiệu Hồng Đức thứ 12
(1481)
Năm Nhâm Dần niên hiệu Hồng Đức thứ
13 (1482)
Năm Quí Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 14
(1483)
Năm Giáp Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ
15 (1484)
Năm Ất Tị niên hiệu Hồng Đức thứ 16
(1485)
Năm Bính Ngọ niên hiệu Hồng Đức thứ
17 (1486)
Năm Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ
18 (1487)
Năm Mậu Thân niên hiệu Hồng Đức thứ
19 (1488)
[5b] Năm Kỉ Dậu niên hiệu Hồng Đức thứ 20 (1489)
Năm Canh Tuất niên hiệu Hồng Đức thứ
21 (1490)
Năm Tân Hợi niên hiệu Hồng Đức thứ 22
(1491)
Năm Nhâm Tí niên hiệu Hồng Đức thứ 23
(1492)
Năm Quí Sửu niên hiệu Hồng Đức thứ 24
(1493)
Năm Giáp Dần niên hiệu Hồng Đức thứ
25 (1494)
Năm Ất Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 26
(1495)
Năm Bính Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ
27 (1496)
Năm Đinh Tị niên hiệu Hồng Đức thứ 28
(1497)
Năm Mậu Ngọ niên hiệu Cảnh Thống thứ 1
(1498) đời vua Lê Hiến Tông Duệ Hoàng đế.
Năm Kỉ Mùi niên hiệu Cảnh Thống thứ 2
(1499)
Năm Canh Thân niên hiệu Cảnh Thống thứ
3 (1500)
Năm Tân Dậu niên hiệu Cảnh Thống thứ
4 (1501)
Năm Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống thứ
5 (1502)
Năm Qúi Hợi niên hiệu Cảnh Thống thứ
6 (1503)
Năm Giáp Tí niên hiệu Thái Trinh thứ
1 (1504) đời vua Lê Túc Tông Khâm Hoàng đế.
Năm Ất Sửu hiệu Đoan Khánh thứ 1
(1505) đời vua Lê Uy Mục Đế
Năm Bính Dần niên hiệu Đoan Khánh thứ
2 (1506)
Năm Đinh Mão niên hiệu Đoan Khánh thứ
3 (1507)
Năm Bính Thìn niên hiệu Đoan Khánh thứ
4 (1508)
[6a] Năm Kỉ Tị niên hiệu Hồng Thuận thứ 1 (1509) đời vua Lê Tương
Dực Đế
Năm Canh Ngọ niên hiệu Hồng Thuận thứ
2 (1510)
Năm Tân Mùi niên hiệu Hồng Thuận thứ
3 (1511)
Năm Nhâm Thân niên hiệu Hồng Thuận thứ
4 (1512)
Năm Quí Dậu niên hiệu HồngThuận thứ 5
(1513)
Năm Giáp Tuất niên hiệu Hồng Thuận thứ
6 (1514)
Năm Ất Hợi niên hiệu Hồng Thuận thứ 7
(1515)
Năm Bính Tí niên hiệu Quang Thiệu thứ
1 đời vua Lê Chiêu Tông Thần Hoàng đế (1516)
Năm Đinh Sửu niên hiệu Quang Thiệu thứ
2 (1517)
Năm Mậu Dần niên hiệu Quang Thiệu thứ
3 (1518)
Năm Kỉ Mão niên hiệu Quang Thiệu thứ
4 (1519)
Năm Canh Thìn niên hiệu Quang Thiệu
thứ 5 (1520)
Năm Tân Tị niên hiệu Quang Thiệu thứ
6 (1521)
Năm Nhâm Ngọ niên hiệu Thống Nguyên 1
(1522) đời vua Lê Cung Đế
Năm Quí Mùi niên hiệu Thống Nguyên thứ
2(1523)
Năm Giáp Thân niên hiệu Thống Nguyên
thứ 3 (1524)
Năm Ất Dậu niên hiệu Thống Nguyên thứ
4 (1525)
Năm Bính Tuất niên hiệu Thống Nguyên
thứ 5 (1526)
Năm Đinh Hợi - Mạc Đăng Dung tiếm
xưng, niên hiệu Minh Đức thứ 1 (1527)
Năm Mậu Tí, niên hiệu Minh Đức thứ 2
đời Mạc (1528)
[6b] Năm Kỉ Sửu, niên hiệu Minh Đức thứ 3 đời Mạc (1529)
Năm Canh Dần- Mạc Đăng Doanh tiếm
xưng, lấy niên hiệu Đại Chính 1 (1530)
Năm Tân Mão- niên hiệu Đại Chính thứ
2 đời Mạc (1531)
Năm Nhâm Thìn - niên hiệu Đại Chính
thứ 3 đời Mạc (1532)
Năm Quí Tí, niên hiệu Nguyên Hòa thứ
1 đời vua Lê Trang Tông, Mạc Đại Chính năm thứ 4 (1533)
Năm Giáp Ngọ niên hiệu Nguyên Hòa thứ
2, Mạc Đại Chính năm thứ 5 (1534)
Năm Ất Mùi niên hiệu Nguyên Hòa thứ
3, Mạc Đại Chính năm thứ 6 (1535)
Năm Bính Thân niên hiệu Nguyên Hòa thứ
4, Mạc Đại Chính năm thứ 7 (1536)
Năm Đinh Dậu niên hiệu Nguyên Hòa thứ
5, Mạc Đại Chính năm thứ 8 (1537)
Năm Canh Tí niên hiệu Nguyên Hòa thứ
6, Mạc Đại Chính năm thứ 9 (1538)
Năm Kỉ Hợi niên hiệu Nguyên Hòa thứ
7, Mạc Đại Chính năm thứ 10 (1539)
Năm Canh Tí niên hiệu Nguyên Hòa thứ
8, Mạc Đại Chính năm thứ 11 (1540)
Năm Tân Sửu niên hiệu Nguyên Hòa thứ
9, Mạc Phúc Hải tiếm xưng lấy niên hiệu là Quảng Hòa thứ 1 (1541)
Năm Nhâm Dần niên hiệu Nguyên Hòa thứ
10, Mạc Quảng Hòa thứ 2 (1542)
Năm Quí Mão niên hiệu Nguyên Hòa thứ
11, Mạc Quảng Hòa năm thứ 3 (1543)
Năm Giáp Thìn niên hiệu Nguyên Hòa thứ
12, Mạc Quảng Hòa năm thứ 4 (1544)
Năm Ất Tị niên hiệu Nguyên Hòa thứ
13, Mạc Quảng Hòa thứ 5 (1545)
Năm Bính Ngọ niên hiệu Nguyên Hòa năm
thứ 14, Mạc Quảng Hoà năm thứ 6 (1546)
Năm Đinh Mùi niên hiệu Nguyên Hòa thứ
15, Mạc Phúc Nguyên tiếm xứng lấy niên hiệu là Vĩnh Định thứ 1 (1547)
[7a] Năm Mậu Thân niên hiệu Nguyên Hòa thứ 16, Mạc Phúc Nguyên lấy
tên là Cảnh Lịch thứ 1 (1548).
Năm Kỉ Dậu niên hiệu Thuận Bình 1, đời
vua Lê Trung Tung Võ hoàng đế, Mạc Cảnh Lịch năm thứ 2 (1549)
Năm Canh Tuất niên hiệu Thuận Bình 2,
Mạc Cảnh Lịch năm thứ 3 (1550)
Năm Tân Hợi niên hiệu Thuận Bình thứ
3, Mạc Cảnh Lịch năm thứ 4 (1551)
Năm Nhâm Tí niên hiệu Thuận Bình thứ
4, Mạc Cảnh Lịch năm thứ 5 (1552)
Năm Quý Sửu niên hiệu Thuận Bình thứ
5, Mạc Cảnh Lịch năm thứ 6 (1553)
Năm Giáp Dần niên hiệu Thuận Bình thứ
6, Mạc Cảnh Lịch năm thứ 7 (1554)
Năm Ất Mão niên hiệu Thuận Bình thứ
7, Mạc Phúc Nguyên tiếm xưng lấy niên hiệu là Quang Bảo thứ 1 (1555)
Năm Bính Thình niên hiệu Thuận Bình
thứ 8, Mạc Quang Bảo năm thứ 2 (1556), Mạc Quang Bảo thứ 2.
Năm Đinh Tị niên hiệu Thiên Hựu thứ 1
đời Lê Anh Tông, Mạc Quang Bảo năm thứ 3 (1557)
Năm Mậu Ngọ niên hiệu Chính Trị thứ 1
đời Lê Anh Tông, Mạc Quang Bảo năm thứ 4 (1558)
Năm Kỉ Mùi niên hiệu Chính Trị 2
(1559)
Năm Canh Thân niên hiệu Chính Trị 3,
Mạc Quang Bảo năm thứ 6 (1560)
Năm Tân Dậu niên hiệu Chính Trị thứ
4, Mạc Quang Bảo năm thứ 7 (1561)
Năm Nhâm Tuất niên hiệu Chính Trị thứ
5, Mạc Quang Bảo năm thứ 8 (1562)
Năm Quí Hợi niên hiệu Chính Trị thứ
6, Mạc Quang Bảo thứ 9 (1563)
Năm Giáp Tí niên hiệu Chính Trị thứ
7, Mạc Quang Bảo thứ 10 (1564)
Năm Ất Sửu niên hiệu Chính Trị thứ 8,
Mạc Mậu Hậu tiếm xưng, lấy niên hiệu là Thuần Phúc thứ 1 (1565)
Năm Bính Dần niên hiệu Chính Trị thứ
9, Mạc Thuần Phúc năm thứ 2 (1566)
Năm Đinh Mão niên hiệu Chính Trị thứ
10, Mạc Thuần Phúc năm thứ 3 (1567)
[7b] Năm Mậu Thìn niên hiệu Chính Trị thứ 11, Mạc Mậu Hợp lấy niên
hiệu Sùng Khang thứ 1 (1568)
Năm Kỉ Tị niên hiệu Chính Trị thứ 12,
Mạc Sùng Khang năm thứ 2 (1569)
Năm Canh Ngọ niên hiệu Chính Trị thứ
13, Mạc Sùng Khang năm thứ 3 (1560)
Năm Tân Mùi niên hiệu Chính Trị 14, Mạc
Sùng Khang năm thứ 4 (1561)
Năm Nhâm Thân niên hiệu Hồng Phúc 1 đời
Lê Anh Tông, Mạc Sùng Khang năm thứ 5 (1562)
Năm Quí Dậu niên hiệu Gia Thái 1 đời
vua Lê Thế Tông Nghị Hoàng đế, Mạc Sùng Khang năm thứ 6 (1563)
Năm Giáp Tuất niên hiệu Gia Thái thứ
2, Mạc Sùng Khang năm thứ 7 (1564)
Năm Ất Hợi niên hiệu Gia Thái thứ 3,
Mạc Sùng Khang năm thứ 8 (1565)
Năm Bính Tí niên hiệu Gia Thái thứ 4,
Mạc Sùng Khang năm thứ 9 (1566)
Năm Đinh Sửu niên hiệu Gia Thái thứ
5, Mạc Sùng Khang năm thứ 10 (1567)
Năm Mậu Dần niên hiệu Quang Hưng thứ
1 đời vua Lê Thế Tông, Mạc Mậu Hợp lấy niên hiệu là Diên Thành thứ 1 (1568)
Năm Kỉ Mão niên hiệu Quang Hưng thứ
2, Mạc Diên Thành năm thứ 2 (1569)
Năm Canh Thìn niên hiệu Quang Hưng thứ
3, Mạc Diên Thành năm thứ 3 (1570)
Năm Tân Tị niên hiệu Quang Hưng thứ
4, Mạc Diên Thành năm thứ 4 (1571)
Năm Nhâm Ngọ niên hiệu Quang Hưng thứ
5, Mạc Diên Thành năm thứ 5 (1572)
Năm Quí Mùi niên hiệu Quang Hưng thứ
6, Mạc Diên Thành thứ 6 (1573)
Năm Giáp Thân niên hiệu Quang Hưng thứ
7, Mạc Diên Thành thứ 7 (1574)
Năm Ất Dậu niên hiệu Quang Hưng thứ
8, Mạc Mậu Hợp lấy niên hiệu Đoan Thái là năm thứ 1 (1575)
Năm Bính Tuất niên hiệu Quang
Hưng thứ 9, Mạc Đoan Thái năm thứ 2
(1576)
Năm Đinh Hợi niên hiệu Quang Hưng thứ
10, Mạc Đoan Thái năm thứ 3 (1577)
[8a] Năm Mậu Tí niên hiệu Quang Hưng thứ 11, Mạc Mậu Hợp niên hiệu
Hưng Trị thứ 1 (1578)
Năm Kỉ Sửu niên hiệu Quang Hưng thứ
12, Mạc Hưng Trị thứ 2 (1579)
Năm Canh Dần niên hiệu Quang Hưng thứ
13, Mạc Hưng Trị năm thứ 3 (1580)
Năm Tân Mão niên hiệu Quang Hưng thứ
14, Mạc Mậu Hợp niên hiệu Hồng Ninh năm thứ 1 (1581)
Năm Nhâm Thìn niên hiệu Quang Hưng
Hưng thứ 15, Mạc Hồng Ninh năm thứ 2, năm này nhà Mạc mất ngôi (1582)
Năm Quý Tị niên hiệu Quang Hưng thứ
16 (1583)
Năm Giáp Ngọ niên hiệu Quang Hưng thứ
17 (1584)
Năm Ất Mùi niên hiệu Quang Hưng thứ
18 (1585)
Năm Bính Thân niên hiệu Quang Hưng thứ
19 (1586)
Năm Đinh Dậu niên hiệu Quang Hưng thứ
20 (1587)
Năm Mậu Tuất niên hiệu Quang Hưng thứ
21 (1588)
Năm Kỉ Hợi niên hiệu Quang Hưng thứ
22 (1589)
Năm Canh Tí niên hiệu Thận Đức thứ đời vua Lê Kính Tông Huệ Hoàng đế, năm này đổi
thành niên hiệu Hoằng Định 1 (1590)
Năm Tân Sửu niên hiệu Hoằng Định thứ
2 (1591)
Năm Nhâm Dần niên hiệu Hoằng Định năm
thứ 3 (1592)
Năm Quí Mão niên hiệu Hoằng Định thứ
4 (1593)
Năm Giáp Thìn niên hiệu Hoằng Định thứ
5 (1594)
Năm Ất Tị niên hiệu Hoằng Định thứ 6
(1595)
Năm Bính Ngọ niên hiệu Hoằng Định thứ
7 (1596)
[8b] Năm Đinh Mùi niên hiệu Hoằng Định thứ 8 (1597)
Năm Mậu Thân niên hiệu Hoằng Định thứ 9 (1598)
Năm Kỉ Dậu niên hiệu Hoằng Định thứ
10 (1599)
Năm Canh Tuất niên hiệu Hoằng Định thứ
11 (1600)
Năm Tân Hợi niên hiệu Hoằng Định thứ
12 (1601)
Năm Nhâm Tí niên hiệu Hoằng Định thứ
13 (1602)
Năm Quí Sửu niên hiệu Hoằng Định thứ
14 (1603)
Năm Giáp Dần niên hiệu Hoằng Định thứ
15 (1604)
Năm Ất Mão niên hiệu Hoằng Định thứ
16 (1605)
Năm Bính Thìn niên hiệu Hoằng Định thứ
17 (1606)
Năm Đinh Tị niên hiệu Hoằng Định thứ
18 (1607)
Năm Mậu Ngọ niên hiệu Hoằng Định thứ
19 (1608)
Năm Kỉ Mùi niên hiệu Vĩnh Tộ 1 đời
vua Lê Thần Tông Uyên Hoàng đế (1609)
Năm Canh Thân niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 2
(1610)
Năm Tân Dậu niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 3
(1611)
Năm Nhâm Tuất niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 4
(1612)
Năm Quí Hợi niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 5
(1613)
Năm Giáp Tí niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 6
(1614)
Năm Ất Sửu niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 7
(1615)
Năm Bính Dần niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 8
(1616).
[9a] Năm Đinh Mão niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 9 (1617)
Năm Mậu Thìn niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10
(1618)
Năm Kỉ Tị niên hiệu Đức Long 1 đời
vua Lê Thần Tông (1619)
Năm Canh Ngọ niên hiệu Đức Long thứ 2
(1620)
Năm Tân Mùi niên hiệu Đức Long thứ 3
(1621)
Năm Nhâm Thân niên hiệu Đức Long thứ
4 (1622)
Năm Quí Dậu niên hiệu Đức Long thứ 5
(1623)
Năm Giáp Tuât niên hiệu Đức Long thứ
6 (1624)
Tổ tiên của họ ta bắt đầu từ anh em cụ
Tính Chân phủ quân di cư đến thôn Biểu Nộn lập thôn lập ấp vào năm Giáp Ngọ
niên hiệu Hồng Đức đời vua Lê Thánh Tông cho đến năm trước khi cụ Trực Lượng phủ
quân sinh thành là vào năm Giáp Tuất niên hiệu Đức Long thứ 6, tổng cộng 161
năm, trải 4 thế hệ từ Tính Chân phủ quân đến Đạo Hành phủ quân, Đạo Viễn phủ
quân, Đạo Chính phủ quân gồm 4 đời dấu vết còn mờ mịt, vì làm nghề nông chưa từng
được hiển vinh nên không có sự trạng gì để khảo cứu, mà các đời cũng đã cách xa
khá lâu, phả điệp thì chẳng còn ghi chép nên chẳng biết lúc trước các vị phủ
quân sinh năm nào, mất năm nào chẳng thể khảo cứu được nên chỉ có thể ghi chép
về thế thứ mà thôi. Cho đến năm Dương Hòa Ất Hợi (1635) Trực Lượng phủ quân
sinh thành tiếp nối về sau cho tới ngày nay mới ghi chép được tuổi thọ, sự trạng
để có thể khảo cứu.
[9b]
Năm Ất Hợi niên hiệu Dương Hòa thứ 1 đời vua Lê Thần Tông (1635) là năm Trực Lượng
phủ quân sinh ra.
Năm Bính Tí niên hiệu Dương Hòa thứ 2
(1636)
Năm Đinh Sửu niên hiệu Dương Hòa thứ
3 (1637)
Năm Mậu Dần niên hiệu Dương Hòa thứ 4
(1638)
Năm Kỉ Mão niên hiệu Dương Hòa thứ 5
(1639)
Năm Canh Thìn niên hiệu Dương Hòa thứ
6 (1640)
Năm Tân Tị niên hiệu Dương Hòa thứ 7
(1641)
Năm Nhâm Ngọ niên hiệu Dương Hòa thứ
8 (1642)
Năm Quý Mùi niên hiệu Phúc Thái thứ
1đời vua Lê Chân Tông Thuần Hoàng đế (1643)
Năm Giáp Thân niên hiệu Phúc Thái thứ
2 (1644)
Năm Ất Dậu niên hiệu Phúc Thái thứ 3
(1645)
Năm Bính Tuất niên hiệu Phúc Thái thứ
4 (1646)
Năm Đinh Hợi niên hiệu Phúc Thái thứ
5 (1647)
Năm Mậu Tí niên hiệu Phúc Thái thứ 6
(1648)
Năm Kỉ Sửu Lê Thần Tông tái vị, đổi
niên hiệu thành Khánh Đức thứ 1 (1649)
Năm Canh Dần niên hiệu Khánh Đức thứ
2 (1650)
Năm Tân Mão niên hiệu Khánh Đức thứ 3
(1651)
Năm Nhâm Thìn niên hiệu Khánh Đức thứ
4 (1652)
Năm Quí Mão niên hiệu Thịnh Đức thứ 1
đời vua Lê Thần Tông (1653)
[10a] Năm Giáp Ngọ niên hiệu Thịnh Đức thứ 2 (1654)
Năm Ất Mùi niên hiệu Thịnh Đức thứ 3
(1655)
Năm Bính Thân niên hiệu Thịnh Đức thứ
4 (1656)
Năm Đinh Dậu niên hiệu Thịnh Đức thứ
5 (1657)
Năm Mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Thọ 1 đời
vua Lê Thần Tông (1658)
Năm Kỉ Hợi niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2
(1659)
Năm Canh Tí niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 3
(1660)
Năm Tân Sửu niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 4
(1661)
Năm Nhâm Dần niên hiệu Vạn Khánh thứ
1 đời vua Lê Thần Tông (1662)
Năm Quí Mão niên hiệu Cảnh Trị 1 đời
vua Lê Huyền Tông Mục Hòang đế (1663)
Năm Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Trị thứ
4 (1664)
Năm Ất Tị
niên hiệu Cảnh Trị thứ 5 (1665)
Năm Bính
Ngọ niên hiệu Cảnh Trị thứ 6 (1666)
Năm Đinh
Mùi niên hiệu Cảnh Trị thứ 5 (1667)
Năm Mậu
Thân niên hiệu Cảnh Trị thứ 6 (1668)
Năm Kỉ Dậu
niên hiệu Cảnh Trị thứ 7 (1669)
Năm Canh
Tuất niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 (1670)
Năm Tân
Hợi niên hiệu Cảnh Trị thứ 9 (1671)
Năm Nhâm
Tí niên hiệu Dương Đức 1 đời vua Lê Gia Tông Mĩ Hoàng đế (1672)
Năm Quí
Sửu niên hiệu Dương Đức thứ 2 (1673)
[10b] Năm Giáp Dần niên hiệu Đức Nguyên
1 đời vua Lê Gia Tông (1674)